nguyệt-lão: Trăng già, lấy ở tích Nguyệt hạ lão nhân trong truyện Vy-cố.
Chị Hằng: do chữ Hằng Nga, tương truyền vợ Hậu Nghệ uống vụng thuốc tiên của chồng, trốn lên cung trăng thành nàng tiên tức Hằng Nga.
người thế: Người đời.
thanh-kỳ: Trong-sạch lạ-lùng, ý nói cảnh cao-thượng đáng quí.
Chỉ tham bông thắm, nỡ hoài bông thơm: Bông thắm : Nhan sắc, chỉ gái đẹp. Bông thơm : Đức-hạnh, chỉ cái nết.
thế-sự: Việc đời.
Kẻ kia tám lạng, kẻ này nửa cân: Theo cân ta mỗi cân là 16 lạng, vậy tám lạng với nửa cân thì kém gì nhau.
thêm: Chữ thêm thì không có vần.
Quả mai còn ba bảy đường tơ: Câu này bởi câu thơ "Phiếm mai" trong Kinh Thi : "Phiếu hữu mai, kỳ thực thất hề... kỳ thực tam hề": nói mơ ở trên cành còn 7 quả...ba quả... là tiết cuối Xuân, nhưng cũng vẫn còn trong mùa xuân, ví với con gái lấy chồng tuy muộn song cũng còn vừa thì hôn thú.
đông-bích lân-gia: Nhà láng giềng ở tường đông, chỉ vào nhà hàng xóm, lân bang.
[Back to the top]
bốc phượng: bói phượng. Tả truyện : Trần Kính Trọng chạy sang Tề, Tề-hầu cho làm quan Công-chính, Trần đại-phu họ ý muốn gả con gái cho Kính Trọng, bói được câu rằng :" Phượng-hoàng vu phi, hòa minh tương tương" là quẻ rất tốt. Người ta mượn chữ bốc phượng chỉ việc kết hôn.
mộng lan: Nằm mơ thấy hoa lan. Trịnh Văn Công hiếm, người vợ hầu nằm mơ thấy hoa lan, rồi có thai sinh ra Mục-công. Người ta mượn chữ mộng lan chỉ việc hoài thai.
hồng-nhan: Hồng : đỏ, tười ; nhan : mặt. Hồng-nhan : mặt tươi, nói chung về con gái có diện mạo nhan-sắc tưoi-đẹp ; người ta quen dùng chữ hồng-nhan để chỉ về bạn gái.
Bao nhiêu thêu-dệt y-thường: Hai câu này ( 14 và 15) do câu"Vị tha nhân tác giá y thường" : vì người khác may quần áo cưới. Nói về con gái ế, chỉ may áo cưới cho người.
Vì người ta sửa tư-trang lấy chồng:
bao giờ phượng tới cành ngô: bởi câu " phượng phi ngô bất thê" : chim phượng chẳng phải cành ngô thì không đỗ.
cầu Ô: Tục Tề-hài-ký : Bên đông sông Thiên hà có Chức-nữ, cháu gái Thượng-đế, chăm-chỉ dệt thêu, ngài thương tình gả cho Khiên ngưu ở bên tây Thiên-hà. Sau khi lấy chồng, Chức nữ bỏ cả nữ-công, Thượng-đế giận, lại bắt về Đông-hà, mỗi năm chỉ cho gặp Khiên-ngưu một lần vào buổi thất-tịch ( mồng 7 tháng 7). Hôm ấy có bầy quạ đi đội cầu bắc qua sông cho ông bàNgâu hội-kiến với nhau, con nào cũng bị khoang trắng ở cổ là vết cầu đè phải, nên gọi là cầu Ô ( Ô-thước kiều)
cho ả Chức chàng Ngưu tới gần: