hoá-nhi: hóa:tạo-hóa, trời. Nhi:trẻ con.Trời oái-oăm như trẻ con, nên gọi là hóa-nhi, cũng như trời khéo-léo như tay thợ nên gọi là hóa-công.
cơ-duyên: nhân-duyên khéo khuôn-xếp như có then máy. Có bản chép là lầu duyên. Vì trong bản Nôm, chữ cơ có thể nhận lầm ra chữ lâu là lầu, nhưng lầu duyên là vô nghĩa; cũng có bản chép: "Có duyên ngẫm lại suy đi."
trời Nam: bởi chữ Nam thiên, cõi Tây bởi chữ tây-phương cực lạc thế-giới, ý nói nước ta với cõi Phật chẳng xa-xôi gì.
kỳ-ngộ: gặp-gỡ lạ-lùng.
Lưu, Nguyễn : Lưu: Lưu Thần; Nguyễn: Nguyễn Triệu người đời Hán bên Tàu, trong ngày tiết đoan-ngọ vào núi Thiên-thai hái thuốc, gặp tiên-nữ kết duyên, nửa năm trở về, đã có cháu đời thứ bảy.
Bùi, Trương: Bùi: Bùi Hàng người đời Đường bên Tàu, thi hỏng đi chơi phiếm, gặp tiên-nữ bảo là có duyên với Vân Anh. Sau Bùi qua Lam-kiều, quả-nhiên gặp Vân Anh cưới làm vợ, rồi cùng lên cõi tiên. Còn Trương chưa rõ Trương nào?
Đài Dương: có lẽ là Dương-đài, một quả núi ở phía nam huyện Hán-xuyên, tỉnh Hồ-bắc bên Tàu. Vì ở phương nam là hình núi như cái đài (đền) nên gọi Dương-đài. Sở Tương-vương nằm mộng gặp người con gái tự xưng là thần nữ, sớm làm mây chiều làm mưa ở Dương-đài. Thơ của Trần Đoàn có câu: Xử-sĩ bất tri vu giáp mộng, không giao thần nữ há Dương-đài, tức là tích chuyện này.
hoang-đường: viển-vông không đâu.
bích câu: (nghĩa là ngòi biếc): tên một phường của thành Thăng-long, sau thuộc làng Yên-trạch, huyện Thọ-xương tỉnh Hà-nội. Khi Hà-nội làm thành-phố thì Bích câu đã lọt vào thành-phố Cát-linh, có đền Tú Uyên và hồ Tú Uyên, Sau binh lửa năm 1946, đền đã bị phá, chỉ còn trơ có bức tường. Nay Hà-nội đã có một phố mang tên là phố Bích-câu tức là phố Graffeuil trước.
thu cúc, xuân đào: hai câu này tả cảnh hoa-quả đủ bốn mùa: thu cúc, xuân đào, hạ lựu, đông mai
[Back to the top]
mục: mục là mục-đồng: kẻ chăn trâu..
tiều: tiều là tiều-phu người hái củi.
quỳnh, giao: hai thứ ngọc quí, người ta quen dùng chữ ấy để ví với thứ gì quí giá. Non nước quỳnh-giao cũng như nói non sông gấm vóc.Có bản chép "non nước đìu-hiu".
Thái-hòa: thịnh-vượng,yên-lành,lúc thịnh-trị.
công-tử: con nhà quan, Tú Uyên là con quan họ Trần.
xuân huyên: (cũng đọc là thung):một loài cây, quen dùng ví với cha; huyên một loài cỏ quen dùng ví với mẹ
đồng-ấu: lúc trẻ nhỏ
cửa Trình: bởi chữ Trình-môn cửa họ Trình. Trình Gi hiệu là Y-xuyên, một bậc danh nho đời Tống bên Tàu, học trò là Giu Thù và Dương Thi mới đến học, thấy Trình lim dim mắt ngồi im, hai người cứ đứng chờ không dám động. Khi Trình biết đến, thì ngoài cửa tuyết dày đến 3 thước. Nhân tích ấy người ta dùng chữ Trình-môn lập tuyết để ví người học-trò theo thầy chăm học. Ta có câu "cửa Khổng sân Trình" cũng do tích này.
lâm-toàn: (hay tuyền):rừng, suối, nói về cảnh đường rừng.
lầu thơ: bởi chữ thư lâu, nhà đọc sách.
[Back to the top]
thừa hư: nhân lúc rỗi; đàn suối: tiếng suối nghe như tiếng đàn, Ca chim: tiếng chim hót như điệu ca. Có bản chép :Phách suối ca chim.
huy-hoắc: phung-phí.Có bản chép:lưu-loát.
hoa cúc: có hàng kho như kho vàng, hoa sen có từng đống như đống tiền, ý nói có nhiều hoa đẹp.
trong cõi ba nghìn: bởi chữ tam thiên thế giới, tiếng nhà Phật.
Yên-hà: khói và ráng, trên tầng không.
bốn bạn thêm vui: câu này có bản chép:"...buôn-bán thêm vui" có bản chép:"...bè-bạn thêm vui", có bản chép:"...bốn bạn thêm vui ", có lẽ câu thứ ba đúng hơn : bốn bạn bởi chữ văn-phòng tứ hữu chăng ? Xin kính chất cùng thức-giả.
bể thánh: cũng như bể học, nơi chứa đựng lý-thuyết của thánh hiền; rừng tao : chỗ tụ-tập các tao-nhân mặc khách (làng văn).
sương sao: Ý nói năm tháng thay-đổi.
bóng dâu: bởi chữ tang du mộ cảnh.
huyên già ngại sương: cha mẹ mất,
tang-thương: tang điền (ruộng dâu), thương :thương hải (bể cả) do chữ thương hải biến tang điền (bể cả hóa ruộng dâu) ý nói cuộc đời thay đổi.
mây trắng: bởi chữ bạch vân do tích Địch Nhân Kiệt đời nhà Đường bên Tàu, đi làm quan xa quê nhà, trông thấy đám mây trắng trên núi Thái-hàng, than rằng "nhà bố mẹ ta ở nơi đó ". Câu này nói tưởng-nhớ cha mẹ.
thâm tình: bởi câu phụ tử tình thâm, tình cha con sâu-xa thấm-thía.
bầu Nhan: ông Nhan Uyên (học-trò giỏi của đức Khổng-tử) nhà nghèo, nhưng vẫn vui với giỏ cơm bầu nước. Chữ "bầu Nhan" đây là nói cảnh nghèo.
thảo đường: nhà tranh.
ao tù: ao nước tù hãm. Có bản chép "ao nhàn" thì vô nghĩa. Phải bản gỗc chữ tù trông giống chữ nhàn, người ta dịch âm sai.