sinh: tiếng gọi những hạng người văn-học. Sinh đây chỉ vào Tú Uyên,Trần Sinh.
vinh khô: tươi;khô:héo, ý nói người có lúc sung-sướng lúc khổ-sở, cũng như cây có lúc tươi lúc héo.
cùng thông: cùng:cùng kiệt, quẫn bách; thông:thông đồng, thanh thản.
cơm giỏ nước bầu: bởi chữ đan tự biều ẩm, cảnh nghèo của ông Nhan Uyên(đã chú-thích ở trên).
yến-tước biết đâu chí hồng : câu này bởi chũ "Yến-tước an tri hồng hộc chí", loài ri-sẻ biết sao được chí khí của loài chim hồng, chim hộc (chim to).
tang bồng : bởi chữ tang bồng hồ thỉ cung gỗ dâu, tên cỏ bồng.
Tây-hồ tiên tích : vết tích ở hồ Tây.
phẩm bình: Chung Vinh đời Nam-bắc-triều bên Tàu, sọan 3 quyển thơ, liệt các bài ngũ-ngôn từ đời Hán đời Ngụy 103 nhà, theo sự phê bình hơn kém mà chia ra làm ba phẩm : thượng, trung, hạ . Sau người ta quen dùng hai chữ "phẩm-bình" để nói chuyện thơ. Chữ phẩm bình trong câu này cũng chỉ là nói về ngâm vịnh.
thi hào: hào trưởng trong làng thơ.
Phượng-thành: CaoBiền đời Đường, một nhà giỏi địa-lý bên Tàu, xem đất Hồ Tây Hà-nội, cho là kiểu đất "Phượng-hoàng uống nước". Bởi thế nên người ta gọi Hà-nội là Phượng-thành; cũng có bản chép là Long-thành. Vì Hà-nội thời Bắc-thuộc gọi là Long-biên, cũng gọi là Long-độ, đến đời Lý đóng đô thì gọi là Thăng-long, cái tên Long-thành do đấy mà ra.
[Back to the top]
Lý, Đỗ, Tô, Tào: Lý:Lý Bạch, Đỗ:Đỗ Phủ đều người đời Đường, Tào:Tào Thực, người đời Tam-quốc là những nhà thơ hay (thi-bá) bên Tàu. Còn Tô:tức Tô đông Pha. Có bản chép Tôn,Tào,Tôn, phải chăng Tôn-Sước, người đời Tấn, có bài phú Thiên-thai, quán quân các văn-sĩ tài-hoa lúc bấy giờ nhưng chưa dám chắc; xin thức giả chỉ giáo.
phong-tao: phong:phong-nhã, tao: ly-tao là những tiếng dùng để chỉ về sự văn-học.
châu ken chữ, gấm thêu lời: châu ken chữ: do câu "thi thành châu ngọc tại huy hào", gấm thêu lời do chữ "cẩm tâm tú khẩu" nói thơ hay lời đẹp như gấm vóc. Cả hai câu này đại ý cũng như câu " lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu" của truyện Kiều.
người trong sách là duyên: câu này do câu chữ nho "thú thê mạc hận vô lương môi, thư trung hữu nữ nhan như ngọc", (lấy vợ đừng sợ không mối tốt, trong sách có gái đẹp như ngọc).
Lam-điền: Lam-kiều: tên một cái cầu ở Trường-an, nơi Bùi-Hàng đời Đường gặp tiên-nữ.
Ngọc-hồ. Chay tăng: Ngọc-hồ: tức chùa Bà Ngô ở phố Sinh-từ Hà-nội bây giờ .Chay tăng :đám chay của các nhà sư.
Dập dìu tài-tử giai-nhân: Có bản chép: đầy thềm tài-tử giai-nhân, nhưng Bích-câu có trước truyện kiều, tưởng nên để dập dìu hay hơn.
Mã tích xa trần: vết ngựa,bụi xe.
thưởng xuân: vui dạo cảnh xuân.
cây phạm: cây phướn nhà chùa.
Kim-Ô, non tê: Kim Ô:quạ vàng, trỏ mặt trời. Non tê :bởi chữ tê-sơn, tê ta quen đọc là tây, nhưng chính là tê mới đúng vần chữ Hán.
[Back to the top]
lá hồng : tức chiếc lá có đề bài thơ
Ba vần bốn câu: một bài thơ tứ tuyệt.
thả lá doành câu: bởi tích Vu Hựu đời Đường nhặt được chiếc lá đỏ trong ngự câu (ngôi nhà vua trôi ra, có đề bài thơ rằng: "lưu thủy hà thái cấp, thâm cung tận nhật nhàn, ân cần tạ hồng diệp, hảo khứ đáo nhân-gian .Nghĩa là nước chảy sao vội quá, trong cung sâu trôi suốt ngày, ân cần từ giã chiếc lá đỏ, mày đi tới nhân-gian cho tốt. Vu Hựu cũng đề một bài thơ vào chiếc lá khác thả trên giòng nước cho trôi vào cung. Cung-nữ là Hàn-thúy-Tần nhặt được cất đi. Mười năm sau nhà vua có dịp thải cung nữ, tình cờ Vu Hựu cùng Hàn Thúy-Tần kết duyên với nhau, cùng đem chiếc lá đỏ có đề thơ khi trước ra coi, té ra chiếc lá đề thơ là người mối. Thuý-Tần có thơ rằng: Nhất liên thi cú tuỳ lưu thuỷ,
thập tải ưu-tư mãn tố hoài,
kim nhật đô thành loạn phượng hữu,
phương tri hồng diệp thị lương môi.
Nghĩa là một tập câu thơ theo nước chảy, nỗi nhớ thầm chứa chất trong lòng mười năm, ngày nay đều thành bạn loan phượng, mới biết lá đỏ là người mối tốt.
tam quan: ba cửa, cửa chùa.
con hoàn: bởi chữ liễu-hoàn, con ở gái, thị nữ, thị-tỳ.
người thơ: bởi chữ thi nhân.người văn thơ, thi-sĩ, văn-sĩ.
Quần Nghê: bởi chữ Nghê-thường, thứ xiêm của nàng tiên. Sóng Tương : sóng nước sông Tương, tục truyền hai bà Nga Hoàng, Nũ Anh vợ vua Thuấn, khóc chồng ở bên bờ sông Tương, vẩy nước mắt vào cây trúc, đọng thành giọt óng ánh như ngọc. Giọt rơi xuống nước thành những đám thủy-ba.
Cá chìm nhạn sa: bởi chữ ngư trầm lạc nhạn, nói bóng về sắc đẹp.
làn thu: bởi chữ thu thủy, nói bóng con mắt sắc và sáng như nước mùa thu.
nhăn chút lông nheo: Tây Thi, con gái nhá bán củi xóm tây thôn Trữ-la nước Việt, người đời Xuân-Thu, có nhan-sắc tuyệt trần, mỗi khi bị đau nhăn mặt ôm bụng lại càng đẹp. Câu này nói mỗi cái nhăn lông mày (đuôi nheo) của người đẹp, cũng đủ làm cho tình-tứ não-nùng. Có bản chép: khôn người gọi chút bấy nhiêu cũng tình.
Trương-sinh: có lẽ là Trương Quân-Tụy dan-díu với Thôi Oanh-Oanh trong Mái Tây (Tây-sương-ký). Đây nói bóng về kẻ si tình.
nghiêng nước nghiêng thành: câu này do câu chữ "nhất tiếu khuynh nhân thành, tái tiếu khuynh nhân quốc" : một cười làm nghiêng thành, hai cười làm nghiêng nước. Nói bóng về sức mạnh của sắc đẹp, chỉ một vài cái cười cũng đủ nghiêng đổ thành quách quốc-gia của người ta.
sóng đào: câu này do chữ thu ba tống tình.
[Back to the top]
Từ-lang: tức Từ Thức, người Tống-sơn (Thanh-hóa) đời nhà Trần làm tri-huyện, huyện Tiên-du, đi xem hội mẫu-đơn ở chùa Phật-tích (Bắc-ninh), gặp một nữ-lang lỡ tay bẻ gãy một cành hoa, bị nhà chùa giữ lại bắt đền, Từ thương tình cởi áo ra chuộc cho về. Sau Từ thôi quan về quê, qua núi Nga-sơn lại gặp nữ-lang tức tiên nữ Giáng Hương. Nay ở Nga-sơn còn có một cửa động gọi là động Từ Thức, tương truyền là nơi Từ Thức gặp tiên.
thu-thiên: cây đu
khách: đây trỏ vào mỹ-nhân.
Vô-già: tên một hội ở chùa. Có bản chép : trong hội thuyền già.
cửa không: do chữ không môn. Theo thuyết nhà Phật thì thế-gian cái gì cũng không cả, nên thế-tục cho cửa Phật là cửa không.
ngàn giác: do chữ giàc ngạn. ĐạoPhật là chính giác, noi theo đạo Phật là bước lên cái bờ giác-ngộ.
từ-bi: hiền lành, thương-xót, khẩu-hiệu của nhà Phật là từ-bi lân mẫn chúng-sinh.
thị-phi: phải trái. Câu này ý nói dù phải hay trái cũng không chấp.
giọng kiều: giọng nói của người con gái.
thư-sinh: học-trò, người đọc sách.
đèn từ: ngọn đèn từ-bi, ý nói đèn nhà Phật.
[Back to the top]
tấm thành: có bản đề là tâm thành, nhưng tấm thành có lẽ ổn hơn. Tấm thành là lòng thành, do chữ nhất phiến thành tâm, mới là lời nói nhún.
Chi-viên: tên một khu vườn của đức Phật. Ngày xưa Tu Đạt Đa trưởng-giả muốn sửa một nơi tinh-xá (nhà tinh-khiết) để đức Phật ở, xét chỉ có vườn của Chi-Đà Thái-tử rộng 80 khoảng, nhiều cây sầm-uất, bèn nói với Thái-tử, Thái-tử bảo đem vàng giải khắp vườn sẽ cho. Tưởng là nói đùa, không ngờ trưởng giả làm thực, rồi dựng thành tinh-xá thỉnh đức Phật đến ở, gồm 1300 khu. Vì là vườn của Chi-Đã Thái-tử nên mới gọi là Chi-viên.
phương-tiện: tùy phương nhân-tiện, tiếng nói của nhà Phật, cũng như nói tùy-tiện không bắt-buộc.
kim thằng: dây vàng, dây buộc kinh của nhà Phật.
trăng hoa: tức là trêu hoa ghẹo nguyệt : chuyện trai gái. Có bản chép Phong-hoa : bởi chữ phong-hoa tuyết nguyệt : cái thú vui-vẻ thỏa-thích của trần-gian-e không đúng.
bến từ: bến từ-bi của nhà Phật. Có bản chép bến Thiền.
giác: bởi chữ chính-giác, dạo Phật lấy sự giác-ngộ làm tông-chỉ chính; thuyền giác nghĩa là con thuyền chứa đầy sự giác-ngộ. Có bản chép : Sá đem thuyền giác dộ người si-mê.
bồ-đề: tiếng Phạn, cũng như nói chính-giác.
mê tân: bến mê
tiền duyên: duyên trước
[Back to the top]
kim thân: thân đời nay.
ba sinh: bởi chữ tam sinh, ba đời luân chuyển, kiếp này sang kiếp khác.
mười nguyền: bởi chữ thập đại nguyện (mười điều nguyện-ước lớn), chữ nhà Phật.
kim-tướng: bởi chữ kim tướng ngọc chất, tướng vàng chất ngọc, nói về bậc cao-quí thiêng-liêng. Có bản chép Kim-hạnh.
Xích-thằng: dây đỏ, lấy tích Vi Cố đời Đường đi cầu hôn, gặp ông già ngồi tựa cái túi vải hướng về mặt trăng soạn sổ. Hỏi sổ gì thì nói là hôn-nhân. Hỏi trong túi có vật gì, thì nói có dây đỏ để buộc chân những người có duyên nợ vợ chồng, dù xa cách hay có thù hằn gì, khi đã xe dây thì không thể tránh được.
gậy linh: bởi chữ linh trượng, gậy thiêng, nghi-trượng của nhà chùa
cao-tăng: nhà sư cao tay. Sư giỏi.
Cầu Lam: Lam-kiều, nơi Bùi-Hằng đời Đường gặp tiên nữ.
nước bèo: bởi câu bình thủy tương phùng, tận thị tha hương chi khách (bèo nước gặp nhau, đều là khách lạ quê người cả.