Tục-ngữ, ca dao


Chú-Thích


4- Linh tinh

Bao giờ tôi gặp em lần nữa,
Ngày ấy thanh bình chắc nở hoa.
Đã hết sắc mùa chinh chiến cũ,
Còn có bao giờ em nhớ ta ?
1949
Quang Dũng

Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông
Nguyễn Bá Học

Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vua đất Bắc
Trần Bình Trọng

Yêu giống nòi mình lầm than mãi rồi
Yêu khiến lòng chẳng biết sao nguôi
Du Ca

Súc-sắc súc-sẻ

Nhà nào nhà này, còn đèn còn lửa,
Mở cửa cho anh em chúng tôi vào.
Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp;
Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu;
Bước ra đằng sau, thấy nhà ngói lợp.
Voi ông còn buộc, ngựa ông còn cầm,
Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ.
Vợ ông sinh đẻ, những con tốt lành,
Những con như tranh, những con như rối.

Thằng Bờm

Thằng Bờm có cái quạt mo,
Phú-ông xin đổi ba bò chín trâu.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy trâu.
Phú-ông xin đổi một xâu cá mè.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mè.
Phú ông xin đổi một bè gỗ lim.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy lim.
Phú ông xin đổi con chim đồi-mồi.
Bờm rằng : Bờm chẳng lấy mồi.
Phú-ông xin đổi nắm xôi, Bờm cười.

Chặt củi

Tay cầm con dao
Làm sao cho sắc,
Để mà dễ cắt,
Để mà dễ chặt,
Chặt lấy củi cành.
Trèo lên rừng xanh,
Chạy quanh sườn núi,
Một mình thui-thủi,
Chặt cây chặt củi,
Tìm chốn mà ngồi,
Kìa một đàn chim,
Ở đâu bay đến.
Ở đâu bay lại;
Con đang cắn trái.
Con đang tha mồi,
Qua lối nọ nó ăn,
Cái con hươu kia,
Mày đang ăn lộc,
Lộc vả, lộc sung,
Mày trông thấy tớ,
Tớ không đuổi mày,
Mày qua lối nọ làm chi ?

Thói hay chế-giễu

Ở sao cho vừa lòng người:
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê ;
Cao chê ngỏng thấp chê lùn,
Béo chê béo trục béo tròn,
Gầy chê xương sống xương sườn phơi ra.

Thói ham danh lợi

Cái vòng danh lợi cong cong,
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào.

Sự đời nghĩ cũng nực cười :
Một con cá lội, mấy người buông câu.

Tình cảnh người nhà quê

Làng ta phong cảnh hữu tình,
Dân-cư giang khúc như hình con long.
Nhờ trời hạ kế sang đông,
Làm nghề cày cấy vun trồng tốt tươi.
Vụ năm cho đến vụ mười,
Trong làng kẻ gái người trai đua nghề.
Trời ra, gắng ; trời lặn , về,
Ngày ngày, tháng tháng, nghiệp nghề truân-chiên.
Dưới dân họ, trên quan viên,
Công-bình giữ mực cầm quyền cho thay.
Bây giờ gặp phải hội này,
Khi trời hạn hán, khi hay mưa dầm ;
Khi trời gió bão ầm ầm,
Đồng điền lúa thóc mười phần được ba.
Lấy gì đăng nạp nữa mà,
Lấy gì công việc nước nhà cho đang.
Lấy gì sưu thuế phép thường,
Lấy gì bổ trợ đong lường làm ăn.
Trời làm khổ cực hại dân,
Trời làm mất-mát có phần nào chăng.

Việc làm ruộng

Tháng chạp là tháng giồng khoai,
Tháng giêng giồng đậu, tháng hai giồng cà.
Tháng ba cày vỡ ruộng ra,
Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.
Ai ai cùng vợ cùng chồng,
Chồng cày, vợ cấy trong lòng vui thay !
Tháng năm gặt hái đã xong,
Nhờ trời một mẫu năm nong thóc đầy.
Năm nong đầy, em xay, em, giã.
Trấu ủ phân, cám bã nuôi heo.
Sang năm lúa tốt tiền nhiều,
Em đem đóng thuế, đóng sưu cho chồng.
Đói no có thiếp có chàng,
Còn hơn chung-đỉnh giàu sang một mình.

Ba mươi sáu phố ở Hà-nội

Rủ nhau chơi khắp Long-thành.
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai ;
Hàng Bồ, hàng Bạc, hàng Gai,
Hàng Buồm, hàng Thiếc, hàng Hài, hàng Khay.
Mã -vĩ, hàng Điếu, hàng Giầy,
Hàng Lờ, hàng Cót, hàng Mây, hàng Đàn,
Phố Mới, Phúc-kiến, hàng Ngang,
Hàng Mã, hàng Mắm, hàng Than, hàng Đồng,
Hàng Muối, hàng Nón, Cầu Đông,
Hàng Hòm, hàng Đậu, hàng Bông, hàng Bè,
Hàng Thùng, hàng Bát, hàng Tre,
Hàng Vôi, hàng Giấy, hàng The, hàng Gà.
Quanh đi đến phố hàng Da,
Trải xem hàng phố, thật là cũng xinh.
Phố hoa thứ nhất Long-thành,
Phố dăng mắc cửi, đàng quanh bàn cờ.
Người về nhớ cảnh ngẩn-ngơ,
Bút hoa xin chép nên thơ lưu-truyền.

Bài hát đố

- Ở đâu năm cửa, nàng ơi !
Sông nào sáu khúc nước chảy xuôi một dòng ?
Sông nào bên đục bên trong ?
Núi nào thắt cổ bồng mà có thánh sinh ?
Đền nào thiêng nhất tỉnh Thanh ?
Ở đâu lại có cái thành tiên xây ?
Ở đâu là chín từng mây ?
Ở đâu lắm nước, ở đâu nhiều vàng ?
Chùa nào mà lại có hang ?
Ở đâu lắm gỗ thời nàng biết không ?
Ai mà xin lấy túi đồng ?
Ở đâu lại có con sông Ngân-Hà ?
Nước nào dệt gấm thêu hoa ?
Ai mà sinh ra cửa, ra nhà, nàng ơi ?
Kìa ai đội đá vá trời ?
Kìa ai trị thuỷ cho đời được yên ?
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Xin em giảng rõ từng nơi từng người.

- Thành Hà-nội năm cửa, chàng ơi !
Sông Lục-đầu sáu khúc nước chảy xuôi một dòng.
Nước sông Thương bên đục bên trong,
Núi đức thánh Tản thắt cổ bồng mà lại có thánh sinh.
Đền Sòng thiêng nhất tỉnh Thanh,
Ở trên tỉnh Lạng, có thành tiên xây.
Trên trời có chín từng mây,
Dưới sông lắm nước, núi nay lắm vàng.
Chùa Hương-tích mà lại ở hang ;
Trên rừng lắm gỗ thời chàng biết không ?
Ông Nguyễn Minh-Không xin được túi đồng,
Trên trời lại có con sông Ngân-hà.
Nước Tàu dệt gấm thêu hoa;
Ông Hữu-Sào sinh ra cửa, ra nhà, chàng ơi !
Bà Nữ-Oa đội đá vá trời ;
Vua Đại-Vũ trị thủy cho đời yên vui.
Anh hỏi em trong bấy nhiêu lời,
Em xin giảng rõ từng nơi từng người.

Tục-ngữ, ca-dao gốc chữ Hán

Tiên học lễ, hậu học văn.
(Trước học lễ, nghĩa; sau mới học văn-chương).

Huynh đệ như thủ túc.
(Anh em như chân tay)

Đại phú do Thiên, tiểu phú do cần.
(Giầu to do Trời, giầu nhỏ do cần-kiệm).

Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên.
(Con người mưu toan, Trời định sự thành, bại).

Nam thực như hổ, nữ thực như miêu.
(Con trai ăn như hổ, con gái ăn như mèo.

Tiểu bất nhẫn tất loạn đại mưu
(Không nhịn việc nhỏ thì loạn mưu to).

Thượng bất chính, hạ tắc loạn.
(Trên không ngay thẳng, dưới sẽ làm bậy.

Thiên bất dung gian.
(Trời không tha kẻ làm bậy.)

Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí.
(Việc lành không đến hai lần, việc dữ không đến một mình.)

Tri túc đãi túc, hà thời túc,
Tri nhàn đãi nhàn, hà thời nhàn.
(Biết thế nào là đủ, thì sẽ thấy đủ,
Biết thế nào là nhàn, thì sẽ thấy nhàn.)

Hổ phụ sinh hổ tử.
(Cha là cọp, sinh con là cọp.)

| |