tiến thảo: Tiến : đi tới, Thảo : đánh dẹp
tính mệnh như màu cỏ cây: Hán-thư chép chuyện nhà Tần có câu "Tần quan nhân tính mệnh như thảo đang " nghĩa là nhà Tần xem tính mệnh người như cỏ rác . Đây dùng ý khinh tính mệnh.
Nức hơi mạnh, ơn dày từ trước: Câu này dịch câu nguyên-văn số 98 là chữ lấy ở Tả-truyện chép : Vua Sở đi đánh nước Tiêu, Thân-công Vũ-thần nói : Quân-sĩ rét lắm. Vua Sở liền đi tuần tận nơi, vỗ-về ba quân rất ân cần, ba quân cảm ân vua như được mặc áo ấm mà quên lạnh. Hai chữ "hiệp-khóang" là nghĩa ấy.
Trải chốn nghèo, tuổi được bao nhiêu: nghĩa là trải qua chinh-chiến lắm chốn hiểm nghèo nên kẻ tráng-sĩ phải chịu chết non. Trải qua nhiều trận dưới mũi gươm giáo tức chữ "hoành qua" : xông-pha trước mũi nhọn. Hai câu này dịch nôm rất mắc nghĩa nên phải giải rộng nghĩa thêm.
Non Kỳ: Điển Hoắc-khứ-Bệnh, tướng giỏi đời Hán đánh rợ Hung-nô ở núi Kỳ-liên sau ông chết, vua sai đắp mộ ông như hình núi Kỳ-liên.
Bến Phì: Phì thủy : Điển Bồ Kiên đánh Tần thua ở Phì-thủy quân chết mười phần hết chín, thây đắp thành gò. Sông Phì ở tỉnh Cam-túc có hai ngành chảy hiệp lại một.
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi: lấy ý câu cổ-thi : nhân-gian vô lộ nguyệt mang mang : nơi nhân-gian không còn lối-nẻo, chỉ có mặt trăng dõi dõi soi.
mạc mặt: là vẽ ra dáng mặt. Đơn thanh là sắc đỏ, xanh, sự hội-họa-vẽ.
gọi hồn: là điếu kẻ chết, gọi là điếu vong.
Chàng Siêu: Ban Siêu tên một lão-tướng đời Hán.
[Back to the top]
nắng nỏ: là lao khổ, mệt-nhọc.
Tên reo: bởi chữ minh đích là một thứ tên bắn ra kêu tiếng để làm hiệu lệnh do vua Hung-nô đặt ra.Minh là kêu, đích là mũi tên.
giáo dan: là leo theo cán giáo mà lên thành cao, bởi chữ duyên can.
ngoài chân mây: là nơi xa xôi. Chân mây mặt nước Cổ-thi có câu : Tương khứ vạn dư lý, các tại thiên nhất nhai : cách nhau hơn muôn dặm, mỗi người ở mỗi nơi chân trời.
vay: nghĩa là : phải đâu, há phải đâu-không phải vay-mượn.
cá nước: bởi chữ ngư-thủy. Cá nước, ví vợ chồng tương đắc với nhau. Kinh THi : Hạo hạo giả thuỷ, dục dục giả ngư.:mênh-mang kìa nước, nhởn-nhơn kìa là cá. Ý nói sự gia-thất nhân-duyên.Lại có điển : khi Lưu Bị cùng Khổng Minh Gia-cát-Lượng thân-mật, thì Quan Công cùng Trương Phi không bằng lòng. Lưu Bị nói :Ta có Khổng Minh như cá gặp nước, các ngươi chớ phiền giận. Cá nước ví vợ chồng yêu nhau, vua tôi tin cậy nhau v.v...
nước mây: bởi chữ mây nước : Mây vốn bởi nước sinh ra mà mây ở cao xa, cách trở, ví sự xa cách. Cũng có nghĩa nơi làng mây xóm nước, ca-cách phồn-hoa, hoặc có vẻ phong-lưu ẩ dật không quan hệ với cuộc đời.
chinh phụ: là người vợ có chồng đi chinh thú nơi xa.
vương tôn: là con nhà qúy-phái, có tính phong-lưu dư-dả hay đi chơi xa. Sở-Từ : Vương Tôn du hề bất qui : chàng Vương Tôn đi chơi không về. Vì người phong-lưu ưa đi chơi không đoái đến gia-đình.
hàn huyên: Hàn là lạnh. Huyên là ấm, tức khí-hậu của trời khi ấm khi lạnh, làm cho người hay mắc phải bệnh-tật. Cho nên khi gặp nhau hỏi sự hàn-huyên cũng như hỏi sự bình-yên, là lời thế-thường thù ứng.
[Back to the top]
oanh: là chim oanh, lông vàng rất đẹp, kêu hót rất hay thường kêu ngày xuân. Liễu là cây liễu yếu cành dài như cái roi, lá nhỏ như lá tre mà dài. Xuân trổ lá có vẻ thướt tha, chim oanh thường kêu ở cây liễu.
quyên ca: Chim Đỗ-quyên kêu- Quyên hình như chim O-ho (tu-hú) sắc xám mùa hè kêu suốt đêm ngày. Ta gọi là chim quốc. Hoa-dương quốc-chí chép : Vua nước Thục tên Đỗ Vũ, mất nước, vua chết hoá chim Đỗ-quyên. hay Đỗ Vũ cũng là chim quyên.
Ý nhi: là chim én. Bên Tàu chim én (yến) thường ở trong nhà người. Xuân đến mà thu đi. Có ý thân cận với người. Trang-tử nói :"Điểu mạc tri ư ý nhi : chim không chim nào biết ý người bằng ý-nhi. Đường-thi : Trù-trướng cựu lương song yến-tử. Ni-nam do tự ngữ đông phong : trên rường nhà cũ, còn đôi chim én đậu, ra bộ buồn-rầu chiu-chít kêu như nói chuyện cùng gió đông.
đăng đồ: là lên đường ra đi nơi xa.
mai: Cây mơ có hoa trắng năm cánh, nở mùa đông giữa băng-tuyết có quả khô, tươi, dùng ăn và nêm nấu hay làm thuốc. Văn-nhân ví mai là tiên, vì có vẻ thanh-cao không sợ tuyết sương và có sắc đẹp hương thơm.
đào: Cây đào hoa đỏ màu cung-phấn, có hai thứ, đơn năm cánh, kép mười cánh. Nở ngày xuân có vẻ đẹp, ví mặt gái đẹp.
Phù dung: Hoa màu đỏ cung-phấn, lớn bằng cái đĩa trà, giống hoa hường lá lớn bằng bàn tay, có năm chĩa, hoa nở buổi sớm, tàn buổi chiều, thường trồng ở bờ sông bờ hồ. Thơ Bạch cư Dị : Phù-dung như diện, liễu như my : phù-dung như mặt, liễu như mày : tả dung-mạo Dương quí-phi.
Lũng Tây: tên đất ở tỉnh Thiểm-tây.
Hán Dương: tên quận ở tỉnh Cam-túc.
Hoa dương: là hoa cây dương giống như cây liễu mà lá chồng lên, không như lá liễu rủ xuống cũng có hoa trắng như hoa liễu, thường trồng gần nhà vì có vẻ và sắc đẹp xanh tươi.
[Back to the top]
diễn khơi: là cách xa xuôi ; tiếng ấy xưa dùng mà nay không dùng.
Tiền sen: bởi chữ liên-tiền, nghĩa là lá tre non mới lên ở mặt nước như đồng tiền. Câu 169 nguyên văn dùng chữ tam chú là ba lần đúc. Vì gọi là đồng tiền thì dùng đúc là đúc tiền vậy.
ải xa: ở nguyên văn dùng "tử-tái" là aỉ tím. Sách Cổ-Kim-Chú chép : các nơi quan-ải, nơi Vạn-lý-tràng-thành cùng của aỉ Nhạn-môn-quan đất thảy là màu tím nên gọi tử-tái.
Hoàng Hoa: Hoàng-hoa-thú : kẻ lính thú ở đất Hoành-hoa- đất này có nhiều tên : Hoành-hoa đôi : Hoành-hoa lãnh; Hoàng-hoa phụ. Đất ấy đời Chiến-quốc và đời Đường đã nhiều lầ đánh nhau với rợ Nhu-nhiên và rợ Đột-khuyết. Có nhiều bản chú-thích Hoàng-hoa là hoa vàng, tức hoa cúc nở tháng chín; mỗi năm lính đi thú vừa khi hoa cúc nở, nên gọi là Hoàng-hoa thú-như thế là sai.
lão thân: là cha mẹ già, Chữ thân chỉ cả cha và mẹ- khuê-phụ : là người vợ ở chốn khuê-phòng.
khuê phụ: khuê-phụ : là người vợ ở chốn khuê-phòng.
măng sữa: là con non,dại, nói trẻ con.
tựa cửa: bởi chữ ỷ-mon ( chiến-quốc-sách ) :chuyện Vương Tôn Giả thờ vua Tề, bà mẹ già thường trông con. Khi mai đi chiều về tựa cửa trong nhà mà trông, khi tối đi mà mai không về bà lại ra tận cửa ngõ mà trông. Ỷ-môn là tựa cửa trong nhà. Ỷ-lư là tựa cửa ngõ. Ý mẹ trông con làm nghĩa vụ chính-đáng thì lòng lo khẩn-thiết.
hiếu nam: người con trai có hiếu.
quan hoài: là nỗi nhớ-nhung có quan-hệ.
[Back to the top]
sương sao: bởi chũ tinh-sương. Mỗi một năm có một mùa có sương và mỗi độ sao đi.Sương sao, nghĩa là một năm. Chữ gọi : tinh-sương.
Thoa cung Hán: Thoa trâm giắt tóc có hai ngành, bằng vàng hay ngọc. Điển Hán Võ-đế dựng điện Chiêu-linh.Có hai thần nữ dâng cái thoa ngọc, sau Đế ban cho bà Triệu Tiếp Dư ; về sau có người ghen-ghét mưu đập vỡ thoa ấy, khi mở tráp xem bỗng hóa chim yến bay ra, lên trời.
Gương lầu Tần: Điển Tần Thỉ-hoàng có cái gương lớn, gọi là Chiếu đởmkính : gương soi ngụ-tạng, soi thấy bộ-phận thân-thể người gian ngay : thường soi các cung-nữ lòng tà, đem chém.
cài đầu: Tao đầu là cái đầu. Cái trâm, hay cái lược giắt tóc, bà Lý phu-nhân đời Hán Võ-Đế dùng ngọc làm trâm cài đầu đầu tiên. Lưu Võ Tích đời Đường, bài Xuân-từ có câu : Hành đáo trung đình sổ hoa đóa, sinh đình phi thượng ngọc tao đầu. Nghĩa là : đi đến giữa sân đếm hoa chơi, bỗng con chuồn chuồn bay đậu trên trâm giắt đầu bằng ngọc.
trân trọng: là giữ-gìn thân-thể hay là qui-báu nâng-niu. Chữ ấy dùng phải đúng theo hoàn-cảnh. Có khi dặn-dò nhau nên giữ-gìn thân-thể. Có khi tỏ-bày sự tôn-kính v.v...