Thấy nhàn: là thấy chim nhạn.Nghĩa riêng là thư-tín. Tô Võ đi sứ rợ Hung-nô, nói lắm lời bất-bình, Hung-nô giận, bắt ở chăn dê nơi Bắc-hải không cho về Hán. Về sau khi Hung nô hòa với Hán, Hán hỏi Tô Võ. Hung-nô nói chết rồi. Có mưu thần là Thương Huệ dặn sứ sang nói với Hung-nô rằng: Tô Võ chăn dê ở bể bắc có bắt được con nhạn xé áo lụa chép thơ buộc chân nhạn, thả bay về Hán. Vua Hán bắn được nhạn , biết Tô Võ còn sống, Hung-nô ngỡ thật, bèn cho Tô Võ về Hán. Bởi điển ấy sau dùng " tin nhàn", "tin hồng", "hồng tiện", "lâu hồng", thảy đều là tin-tức. Đây dùng chữ Tái-bạch là lụa ngoài ải, tức áo lụa Tô Võ xé viết thư. Có chữ Xích-tố thước lụa, cũng là thư.
Nghe hơi sương, sắm áo bông: Điển của nàng Trần Ngọc Lan chồng đi chinh thú xa, mỗi khi mùa thu hơi sương lạnh nàng sắm áo bông gửi cho chồng. Lại có điển : Trương Khuê đi đánh giạc ở biên-thùy, vợ là Hầu-thị làm bài thơ gởi cho chồng có câu : "Văn nhạn kỷ hồi tu xích-tố, kiến sương tiên tự chế y thường" : mấy lúc nghe nhạn thì chép thước lụa và thấy sương xuống đã sắm sẵn áo xiêm.
hồng tiện: Sự tiện-lợi của chim hồng ( Hồng là chim trống, nhạn là chim mái )-nghĩa gửi thư được thuận-tiện.
chữ gấm: bởi chữ Cẩm-tự nghĩa là chữ gắm- Điển đời Tiền-Tấn có Đậu Thao nhân hờn vợ là Tô Huệ khi ra trấn xứ Tương-dương đoạn-tuyệt thư-tín về nhà. Nàng bèn dệt bức gấm viết bài thơ hồi-văn rất tài tình gửi cho chồng. Đậu Thao xem cảm-phục tài nàng bèn đem ngựa rước nàng. Bức thư dệt ấy gọi là Cẩm-tự, chữ gấm.
bói tiền: bởi chữ Kim-tiền-bốc ngày xưa dùng cỏ thi và mai con rùa mà bói. Cỏ thi là trăm cái cọng bằng cỏ thi, mai rùa là cái vỏ trên lưng con rùa. Về sau đời Hán, ông Kinh Phòng dùng tiền đồng 3 trự mà bốc, thế cỏ thi, mai rùa.
rèm thưa: nguyên văn dùng chữ Tương liêm là rèm bằng tre đồi mồi. Bởi điển : hai bà vợ vua Thuấn là Nga Hoàng và Nữ Anh tìm vua Thuấn đi tuần thú chết ở đất Thương-ngô, đến nơi sông Tiêu-tương khóc rảy nước mắt vào cây tre ở bờ sông rồi cùng nhau trầm mình. Về sau tre ở đó hóa thành tre đồi mồi bởi giọt nước mắt có chấm lỏ-đổ như đồi-mồi, gọi là Tương-túc, tre ở sông Tiêu-tương, đem làm rèm, sáo gọi là Tương-liêm= rèm tương.
thước: là chim khách thường kêu gần nhà là có tin. Theo tục tin dị-đoan của Tàu và của ta từ xưa.
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng: Câu này lấy ý câu thơ của Lý thương Ẩn rằng : Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt, thế nhân thùy lệ đáo thiên minh, nghĩa là cây đèn sáp có tiếc nỗi ly biệt,thế người rơi lệ đến trời sáng.
Lại có câu cổ thi : thời văn tái nhạn thanh tương hoán, sa song chỉ hữu đăng tương bạn. Nghĩa là Khi nghe chim nhạn bay ngoài ải gọi nhau, là khi nơi song the chỉ có ngọn đèn làm bạn : tả tình cảnh người chinh-phụ lúc canh khuya.
năm trống: là năm trống canh, ở nguyên văn dùng chữ Ngũ dạ bởi điển xưa có chức Trung-hoàng-môn. Chép ở sách Hán Nghi giữ chức Ngũ dạ. Mỗi canh truyền mỗi thẻ : Giáp dạ, Bính dạ, Đinh dạ, Mậu dạ, là danh hiệu riêng của năm canh trong một đêm.
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên: Câu này dịch chữ bát chuyên là viên gạch thứ tám, bởi điển Hàn-lâm chép : trước tòa Hàn-lâm có đường gạch hoa lát, mùa đông, bóng trăng đến viên gạch hàng thứ tám mới vào trực, nên chúng gọi là "Bán-chuyên học sĩ". Đây dùng chữ bát-chuyên là nơi sân thềm.
[Back to the top]
Gương gượng soi, lệ lại chứa chan: Ở nguyên văn có dùng chữ ngọc trở là đũa ngọc, điển bà Yên-hậu đời Nguỵ có nhan-sắc đẹp, khi khóc nước mắt chảy thòng như đôi đũa ngọc. Thơ Lưu Hiếu Oai có câu : "Thuỳ lân song ngọc trở, lưu diện phục lưu khâm. Nghĩa là : ai thương đôi đũa ngọc khi chảy trên mặt rồi lại chảy vào vạt áo.
Sắt cầm: tên hai cây đàn thường dùng đàn hòa nhau, ví vợ chồng. Kinh Thi : Cầm sắt tại ngự. Đàn cầm sắt đương khi dùng, ý nói vợ chồng ở cùng nhau.
Dây uyên: hai sợi dây đàn giăng ngang nhau, ví đôi chim Uyên-ương : như con vịt có nhiều màu lông đẹp ở chung với nhau, nếu một con chết thì con kia chết theo, ví vợ chồng. Loan-phụng trụ là cái trục dây đàn đóng kề nhau như bạn, chim loan-phụng cũng như uyên-ương. Phiếm loan là những cái phiếm đàn cũng có đôi, ví bạn vợ chồng.
Đây dùng "dây uyên, phiếm loan", lấy vật ví người và ý nói vợ chồng đôi bạn vắng nhau cho nên không muốn đàn sợ đứt hóa ra điềm xấu.
gió đông: là đông phong tức gió mùa xuân. Đây ý nói không biết gởi nỗi nhớ chồng cho ai, muốn cậy gió đông gửi.
non Yên: tức núi Yên-nhiên ở đất ngọai Mông-cổ ; đời Đường có đặt phủ Đô-đốc để cai-trị Mông -cổ. Hậu Hán có Đậu Hiến đánh đuổi rợ Hung-nô đến đấy, bèn lên núi Yên-nhiên khắc công-huân vào đá rồi về.
Giọt sương phủ bụi chim gù: Câu nguyên văn dùng chữ Điểu hạ cao thung, là con chim về buổi chiều hôm .Cao thung là nói chiều hôm. Ngu-uyên là khi chạng vạng
ốc: Ốc nghĩa là nhà, nóc nhà
Một hàng tiêu: tiêu là cây chuối hay là ba tiêu.
nữ công: nữ-công, phụ-xảo là việc khôn-khéo của con gái, đàn bà.
Oanh đôi thẹn dệt, bướm đôi: Oanh đôi là một đôi chim oanh-bướm đôi là đôi con bướm, là loài vật chim sâu thảy có đôi-lứa mà mình thì không, nên thẹn mà chẳng thêu.
[Back to the top]
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai: Câu này dùng ý câu Kinh Thi : "Tự bá chi đông, thủ như phi bông, khi vô cao mộc, thùy thích vi dung"
nghĩa là : từ chàng đi phương đông, đầu để bù xù như cỏ bông bay, há không tắm gội dầu mỡ, song làm tốt cho ai đó mà ?
Giang Lăng:
ả Chức: bởi chữ Chức Nữ : gái dệt- Cũng gọi là Thiên-tôn, Thiên-đế-tôn là cháu trời. Điển chép ở sách Kinh Sở-tuế thời-ký chép : Ở hướng đông sông Ngân-hà có Chức Nữ cháu trời thêu dệt rất giỏi, trời gả cho chàng Khiên Ngư-Lang hoặc Ngư Lang. Chàng Ngâu - Từ khi có chồng, nàng biếng nhác bỏ việc nữ-công không thêu thùa, nên trời phạt, bắt vợ chồng phải xa lìa nhau. Mỗi năm chỉ được gặp nhau vài giờ đêm mồng bảy tháng bảy tại bến sông Ngân-hà; trước khi hội họp có chim ô-thước bắc cấu đội đá, bắc cầu sông Ngân - Đêm ấy đời Đường có tục mỗi nhà có con gái đặt án cúng giữa sân và bắt con nhện bỏ vào hộp, lại xâu kim dưới bóng trăng. Ai xâu được chỉ luồn kim, nhện giăng tơ đầy hộp tức là có Chức Nữ phù-hộ được nữ-công giỏi khéo - Đêm ấy xem lên trời thấy bên sông Ngân có hai ngôi sao gặp nhau trong ít lâu lại đi lìa nhau- Đến tháng tám lại có những ngày nùi tơ trắng bay đi từ trên mây rơi xuống- Đó là Cức Nữ rầu xa chồng mà xé khung cửi thả tơ bay v.v...
chị Hằng: tức Hằng Nga. Nguyên vợ Hâu Ngại đời Hoàng-đế. Ngại tu tiên cầu thuốc trường sinh, Hằng Nga uống trộm thành tiên bay lên cung trăng ở.
Bến Ngân: tứ sông Ngân-hà là một đoạn bóng sáng lờ-mờ đêm giăng ngang trời, ta ngó xa như một vùng nước, nên gọi là sông Ngân, là sông Bạc.
cung trăng: Tức là cung Quảng-hàn. Điển vua Đường Minh-hoàng đêm Trung-thu cùng đạo-sĩ La Công Viên lên chơi trên cung trăng thấy có biển đề 5 chữ "Quảng-hàn thanh hư phủ" : cung phủ rộng lạnh, trong và rỗng -Cung Quảng, Cung quế, Cung thềm đều là trăng cả.
Ôm đàn tranh: nguyên-văn dùng chữ Ngân tranh, lấy ý câu cổ thi :
"Sầu lai dục tấu Tương-tư khúc, bão đắc ngân tranh bất nhẫn đàn",
nghĩa là : khi buồn muốn đàn khúc tương-tư, nhưng ôm cây đàn tranh bạc không nỡ gảy
hành dịch: là đi làm công việc hay đi chinh thú.
Trống tiều: Ở nguyên-văn dùng chữ nang-thác là cái túi, cái đãy. Ý nói bới đồ ăn và cơm khô theo. Kinh Thi : "Nải lỏa hậu lương, vu nang vu thác" : bè gói cơm khô, ở trong túi trong đãy. Chữ nang-thác cũng có nghĩa là tiền bạc đem theo khi đi đường.
Khuê ly: là cách xa nhau lâu ngày
[Back to the top]
trướng: là màn trướng trong quân dùng giăng giữa đồng núi mà ở.
Giang Tân: tên một thành trì ở Hồ Bắc ngày nay
Dương Đài: tên núi ở tỉnh Hồ Bắc, phía bắc sông Hán thủy.
Tương Phố: là bờ sông Tiêu-tương
mộng Xuân: là giấc mộng đêm xuân, đêm xuân ngắn, giấc mộng không lâu. Nghĩa bóng : sự hội ngộ với chồng. Dùng điển ở sách Hầu-thanh lục chép : Ông Tô Đông Pha, khi về hưu, thường đi chơi chốn đồng ruộng gặp một bà lão bới cơm hỏi ông rằng : Ngài có phải từng làm chức Nội-hàn ngày xưa chăng ? Ông đáp phải; bà nói : bao nhiêu sự vinh hoa phú-quí như giấc mông đêm xuân, ngài còn nhớ chăng ? Đông Pha đáp rằng : tôi vẫn nhớ mà nhớ trong giấc mộng. Từ đó ông gọi bà ấy là "Xuân mộng bà", và có câu thơ :"Sự như xuân mộng khứ vô ngân" : việc như giấc mộng xuân nó đi mất không còn ngấn tích.
bến Lũng, thành Quan: Bến Lũng, tức rặng núi Lũng-sơn xứ Thiểm-tây và Cam-túc, và Thanh-quan tứ Hàm-cốc-quan hay là đồng quan, toàn tên cửa ải ở đất Thiểm-tây . Trần Đào đời Đường có bài thơ Lũng Tây hành, vịnh sự đi đánh xứ Lũng tây rằng :
Thệ tảo Hung-nô bất cố thân,
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần .
Khả liên vô định hà biên cốt.
Do thị xuân khuê mộng lý nhân .
Nghĩa là: thề lấy thân đem quét sạch rợ Hung nô, cho nên năm nghìn quân kỵ đội " mão gấm lông điêu " thảy chôn lấp ở đất Hồ. Thương thay chết đã thành đống xương trắng bên sông Vô định, mà hồn còn tưởng sống cứ về nhà thăm vợ chốn phòng xuân.
Dịch :
Quét Hung-nô lấy thân thề.
Năm nghìn mão gấm lấp che bụi Hồ.
Đống xương vô định đà khô.
Hồn còn lẻo đẻo thăm dò phòng xuân.
Cỏ biếc um, dâu mướt ngàn xanh: dịch nguyên văn hai chữ Yên-thảo và Tần tang chữ lấy ở bài xuân tứ của Lý Bạch : Yên-thảo như bích ty,
tần-tang đê lục chi,
đương quân hoài qui nhật,
thị thiếp đoạn trường thì.
Nghĩa là :
Cỏ non Yên như sợi tơ bích,
cần dâu tần sa thấp,
chính là lúc chàng nhớ về mà thiếp cũng nhớ chàng đứt ruột trong khi ấy...
Nhà thôn: Ở nguyên-văn dùng chữ Tỉnh-ấp, tỉnh là giếng, ấp là làng xóm . Riêng chữ tỉnh cũng nghĩa là xóm, theo chế-độ đời Chu xưa mỗi một dặm đất vuông vạch theo chữ tỉnh làm chín phần, mỗi phần trăm mẫu, chia cho tám nhà ( làng xóm ), còn phần chính giữa của công. Tám nhà chung sức là làm phần thứ chín giữa là công điền khỏi nạp thuế : Vì vậy, gọi tỉnh-điền, tỉnh ấp.
quán khách: Ở nguyên-văn câu 323 dùng chữ Đoản-trường đình là những nơi quán-xá làm bên đường quan, năm dặm một gọi là đoản đình, mười dặm một gọi là Trường đình để cho người đi đưa tiễn dùng làm nơi từ-giã và ăn uống.
Lúa thành: Hòa thử: các thứ lúa . Câu nguyên-văn số 327 dùng chữ ấy lấy chữ ở Kinh Thi : Bài Thử-ly nói khi nhà Chu đã dời về miền đông để cung điện miếu-vũ thành nơi đồng ruộng lúa mọc um tùm. Nhân có quan đại-phu đi hành-dịch qua đó, trông thấy thương tâm làm bài thơ Thử-ly ấy. Hứa hồn đời Đường có câu thơ : Hòa thử ly ly bán dã cao : các thứ lúa lên cao nửa cánh đồng, ý nói về sự hoang-phế cung-điện xưa.
[Back to the top]
Nghe thôi ngọc địch véo von bên lầu: Cổ-thi : Trường địch nhất thanh nhân ỷ lâu : Địch dài một tiếng người tựa lầu thổi.
Trĩ xập xoè: Trĩ xập-xòe là chim trĩ bay, cùng nhau một đôi vẫy cánh xập-xòe. Điển : Chim trĩ kết đôi lứa trống mái không tham chạ như con gà con vịt, vì vậy áo phẩm-phục của bà Hoàng hậu gọi là Hôn-dịch. Áo thêu hình chim trĩ lông năm sắc, tỏ ý trinh chính. Lại tên bài hát "trĩ tiêu phi", điển đời Tề Tuyên-vương có người xử-sĩ ở ẩn đã 50 tuổi không có vợ, một hôm đi hái củi thấy đôi chim trĩ bay với nhau, bèn đặt bài hát Trĩ triêu phi để tự ví và tự tỏ nỗi lẻ-loi của mình.
Khói mù: đây dịch chữ phong yên nguyên-văn
Lũng Tây: là tên sông, một con sông lớn ở Lũng tây- Hà là tên sông.
Ngàn thông: tùng thu là những cây thường trồng trên mồ-mả.
chân trời mặt đất,: Do chữ thiên đầu địa đầu ở câu nguyên-văn.
Lên xuống lầu: Lên lầu bởi chữ đăng-lâu là một thành-ngữ của sự trông quê-quán gia-đình. Vương Xáng đời Tam-quốc có bài phú : "Đăng lâu" lên lầu có câu :
Đăng tư lâu nhi tứ vọng,
liên độ nhật dĩ tiêu ưu"
Nghĩa là lên lầu này mà ngắm trông bốn mặt, gọi qua ngày tháng cho đỡ ưu phiền.
Đây dùng đăng-lâu hạ-lâu, lên lầu xuống lầu, là ý nói cho đỡ lo sầu.
Ngọc Quan: là tên một cửa ải ở huyện Long-lặc là nơi giáp-giới Tây-vực.