Gậy rút đất: Điển tiên là ông Phí trương phòng có thuật rút ngắn đường. Ông có cái gậy cầm trỏ vào đất thì dù đường xa nghìn dặm cũng thu gần trước mặt.
Khăn gieo cầu: Điển Thôi Sinh học phép tiên được truyền phép tàng hình ẩn mình, sau vào cung cấm toan làm chạ, bị đạo sĩ đuổi bắt nhờ có tiên nữ là thày dạy ném cái khăn hóa cái cầu dài cho chàng chạy qua nơi sông lớn không có cầu mà đạo-sĩ theo đuổi gấp.
hóa đá: Đá vọng phu : Sách U-Minh-Lục chép Ở miền bắc núi Võ-xương có hòn đá giống người đàn bà ãm con ngồi trông chồng. Theo lời truyền xưa có người chinh-phụ lánh nạn lên núi rồi hóa đá.
E không lệ ngọc mà lên trông lầu: (xem chú thích ở câu dưới đây )
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dương liễu: Hai câu diễn nôm 297-298 dùng lời bài Khuê-oán của Vương Xương Linh đời Đường:
Hốt kiến mạch đầu dương-liễu sắc,
hối giao phu tế mịch phong hầu.
Nghĩa là :
Chợt thấy đầu đường sắc dương liễu xanh tươi, thì hối-hận sao mình lại khiến chồng đi lập công danh kiếm phong tước hầu nơi xa.
Ý nói thấy sắc liễu đẹp mà không có chồng mình xem, vì chồng đi đánh giặc lập công-danh nơi xa cho nên tự hối-hận.
Bài này nói người thiếu-phụ lên lầu trông phong cảnh ngày xuân sực nhớ chồng đi đánh giặc nơi xa.
Hướng dương: là chỉ hoa quì. Hoa vàng giống hoa cúc lớn bằng cái đĩa, buổi mai ngảnh về hướng đông, chiều hướng tây theo bóng mặt trời. Cổ thi có câu vịnh hoa quì rằng :
"Huỳnh hoa linh lạc vô nhân khán,
độc tự khuynh tâm hướng thái dương"
Hoa vàng rời-rã không ai thấy, chỉ tự một mình nghiêng lòng theo bóng mặt trời; ý nói mình có lòng trung-trinh tự mình biết không ai hay.
Ở câu diễn nôm số 63-64 trước kia
" Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai ",
đó là diễn câu nguyên văn
"Mạch thượng tang, mạch thượng tang,
thiếp ý quân tâm thùy đoản trường "
ba chữ "Mạch thượng tang" nay lại có thâm ý tác gỉa dùng điển của nàng La Phu hát bài "Mạch thượng tang" để tỏ mình là gái có chồng mà cự-tuyệt Triệu vương có ý muốn ghẹo nàng. Khi dịch nôm không thể nào tỏ tâm ý ấy được, nên đây phải giải thêm nghĩa và nêu rõ rằng câu 63-64 trước là lối văn phục tuyến.(Múi chỉ lặn), đến câu 351 lại nổi lên.
đêm sương: nghĩa là mỗi năm có một thời mùa có sương, đây ở nguyên văn dùng "Kỷ sương" là mấy lần sương, tức mấy năm
Chồi lan: Lan có nhiều tên, nguyên mọc ở núi sâu, người đem trồng nơi bồn chậu lá như lá hành, tỏi, dài và cứng, hoa năm cánh màu trắng tím, có những tên : Bạch-ngọc , Tử-cán , Nhất-điểm-hồng , Túy-ông , Hạc-đinh và nhiều thứ phong lan . Trong núi lan bám vào gốc cây lèn đá mà sống, hương thơm hơn các thứ hoa. Văn-nhân cho vào hạng người hiền nhân, quân-tử bè-bạn có tài lành gọi là Kim-lan nhà người quân-tử gọi lan-thất. Đức Khổng-tử gọi lan có hương Vương-Gỉa nghĩa là hương làm vua các loài hương.
tần: là cây rau, mọc ở nước như rau nhút, cùng rau táo, cũng loài rau ở nước hay rong. Người đàn bà có đức cần kiệm gọi là Tần Táo. Vì các rau ấy dùng làm cỗ cúng-tế mà việc ấy của bà chủ nhà lo.
thiên chương: các vẻ trên trời như sao mây, ráng mống, mặt trời mặt trăng v.v... cũng gọi là văn-chương. Phàm vật gì của trời đất có vẻ đẹp như non sông hoa quả cũng là văn-chương của đất.
Kinh Thi : trác bi vân hán, vi chương vu thiên = rực rỡ sông Ngân-hán kia làm nên vẻ đẹp ở trên trời.
[Back to the top]
Bóng Ngân Hà: ngân là bạc. Bóng bạc là vẻ sáng đêm của sông Ngân-hà vệt sáng nửa lưng trời như một vùng nước do đám sao nhỏ ở xa trông thấy vẻ sáng lờ mờ. Vân-hán - Ngân-hán - Ngân-hoàng như nhau.
Khuê Triền: sao Khuê, thuộc về sự trừu-tượng của văn-chương một tên trong 28 tên sao gọi là nhị thập bát tú. Triền là đường đi của các ngôi sao hành-tinh. Thiên-văn Tàu có 360 triền độ. Đây dùng Khuê-triền là độ đi của sao Khuê.
Bắc Đẩu: sao đẩu ở hướng bắc có bảy ngôi, đóng bảy điểm hình như cái đấu (4 sao hình cái đấu, 3 sao hình cái cán, tức chuôi).
thôi Đông lại Đoài: Đông là phương đông. Đoài là phương tây, đóng theo hình bát-quái, quẻ đoài ở phương tây.
Sâm Thương: Sao Sâm là sao Hôm, Thương là sao Mai, hai sao ấy không bao giờ hiện một lần . Sao Sâm hướng tây khi trời vừa tối. Sao Thương hướng đông khi trời gần sáng . Ví sự chia lìa của người ta.
ruổi ngựa dặm trường mây phủ: ( Ngựa ) ở nguyên-văn là con ngựa mạnh sắc xanh . Sách Đường-thư chép : Phiêu là ngựa sắc vàng trắng xen nhau, là con ngựa ở xứ Nam-man, mạnh xà chạy hay.
lầu cũ: ở nguyên-văn dùng chữ Hường-diệp-lang là cái hiên vang tiếng giầy đi. Điển= Vua Phù Sai nước Ngô dùng gỗ biền-sử lát nền cung điện cho nàng Tây-Thi đi, nghe có tiếng vang, gọi là Hưởng-diệp-lang. Di-tích ấy hiện còn ở tỉnh Giang-tô.
lương thì: là buổi tốt dịp tốt. Sách Bắc-Tề có câu : Lương-thì mỹ cảnh vị thường hư phí : Buổi tốt cảnh đẹp không hề bỏ qua.
cành Diêu đóa Ngụy: Diêu là họ Diêu đã tìm đầu tiên giống hoa mẫu đơn sắc vàng. Ngụy là họ Nguỵ đã tìm mẫu đơn màu tím có tiếng truyền từ xưa, hoa mẫu-đơn vàng tím gọi là Diêu Ngụy hay Diêu-hoàng Ngụy-tử hay cành Diêu đóa Ngụy,
Mẫu đơn là một thứ hoa có nhiều màu, cây cao 3,4 thước lá có năm chĩa, hoa lớn bằng cái đĩa trà rất nhiều cạnh như vài mươi hoa hường (tường-vi) kết lại. Có hương thơm sắc đẹp. Có tên riêng là "Phú-quí hoa" "Hoa-vương" và"Quốc-sắc thiên-hương". Nở từ đầu xuân đến đầu hạ.
bắc cầu sang sông: Tục truyền khi ả Chức chàng Ngưu hội nhau ở bến Ngân-hà thì có chim Ô-thước (quạ) đội đá bắc cầu cho qua sông.
[Back to the top]
Thời tiết lành: tức Lương-thì đã nói ở chú thích số 18.
Thoi đưa ngày tháng: Nghĩa là ngày tháng đi nhanh chóng như cái thoi dệt. Cổ thi có câu :
Hồng nhan tam xuân thụ lư quang nhất trịch thoa.
Nghĩa là :
Mặt đỏ (tuổi trẻ) như cây trong ba tháng xuân, bóng sáng trôi đi như thoi đưa, ý nói người gìa và thời giờ đi lanh-lẹ.
Hợp ly đành buồn quá khi vui: Câu này dùng ý thơ Trương-Tố : Vịnh ả Chức chàng Ngưu - Biệt đa hội hiểu nại nhược hà, khước ức tùng tiền hoan ái đa : Xa nhau nhiều gặp nhau ít, biết làm sao bây giờ, khiến lại nhớ vì trước kia đã nhiều yêu nhau.
bồ liễu: là cây thủy-dương mọc ở bờ hồ ao, chất yếu lắm, chưa đến mùa thu lá đã rụng.
Điển : Cố Duyệt và Giản Văn Đế tuổi bằng nhau mà râu tóc Cố Duyệt bạc hết .
Đế hỏi vì sao ? Duyệt đáp :
Bồ liễu chi tư vọng thu tiêu điều ,
Tùng bá chi chất kinh sương do mậu.
Vóc cây bồ liễu trông mùa thu đã điêu tàn (tức là Cố Duyệt ) chất cây tùng bá trải bao lần sương vẫn tươi tốt (tức giản Văn Đế) .
Có bản giải nghĩa cây cỏ bồ và cây liễu là sai.-Đây ví bồ-liễu là chất đàn bà.
Văn Quân: Con gái Trác Vương-Tôn ở Lâm cùng, góa chồng, nghe Tư-Mã Tương-Như muốn lấy người vợ lẽ , Trác Văn-Quân bèn làm bài Bạch-đầu ngâm . Tương Như cảm-tình không lấy vợ lẽ, cùng Trác Văn-Quân ở đến già ( Hán-thư ).
Phan Lang: tức Phan An-Nhân cũng gọi là Phan Nhạc người có sắc đẹp và tài học cao-siêu mỗi khi ra đường con gái đua nhau ghẹo, ném quả đầy xe ( Tấn-thư ). Hai điển 25-26-ý nói một ngày kia vợ chồng cùng già.
quang âm: là bóng sáng mặt trời, tức ngày giờ.
niên hoa: là đang tuổi trẻ
nạ dòng: là gái có chồng lớn tuổi nhiều con . Ở Bắc-thành xưa gọi những người ấy là Nạ.
phảng phất hơi hương: Câu này ở nguyên-văn chữ " Giải hương la " là cởi cái áo thơm ( áo ướp nhang thơm ).
Đường-thi, bài Cung-từ : La y dục hóan cánh thiêm hương " : Áo lụa-là khi muốn thay, lại đốt thêm hương mà xông áo cho thơm.
[Back to the top]
chim uyên: là chim uyên-ương
chim yến: hay là chim én.
loài sâu: Chữ nguyên-văn là chữ "cùng" cũng gọi là cùng cùng . Có nhiều nghĩa :
1-con sâu như con ve, con dế gọi chung là cùng hay còng là loài sâu ;
2-Tên một thú-vật ở Bắc-hải hình giống con ngựa, cũng có một tên nữa là cự-hư ; con này có sức mạnh chạy xa mà không biết kiếm đồ ăn, nên phải nương tựa vào con khuyết mà mà đi. Con khuyết không đi được phải nương theo con cự-hư . Khi có cỏ ngọt, khuyết nhường cho cự-hư ăn, khi có hoạn nạn cự-hư cõng khuyết chạy. ( Sơn-hải-kinh ).
loài chim: Chữ này dịch chữ Kiêm ở nguyên-văn sách Nhĩ-nhã chép : Kiêm như con le le, lông màu xanh, chỉ có một cánh và một mắt, thường ở phương nam, mỗi khi muốn bay thì hai con phải chắp cánh với nhau rồi mới bay được . Gọi là tỹ-dực điểu chim liền cánh-cũng gọi là kiêm-kiêm.
Liễu: là cây liễu, nguyên-văn là chữ lộ-liễu : cây liễu ở bên đường.
Điển : Đời Chiến-quốc có ngươi Hàn Bằng, làm chức xá nhân ở nước Tống, vợ là Hà-thị có sắc đẹp, vua Tống muốn đoạt, bèn giam Bằng mà cướp Hà thị, Hà-thị không chịu thất tiết với chồng, bèn tự tử, và để lời xin cho hai vợ chồng được hợp táng với nhau một mồ . Hàn Bằng cũng chết . Vua Tống không cho hợp táng, bắt phải chôn hai mồ cách nhau chừng vài trượng . Được ít lâu trên hai mồ đều mọc một cây liễu, trên liền cành mà dưới đất liền rễ, thường có đôi chim uyên-uơng ở trên cây ấy đêm kêu tiếng nghe rất hảm-thương.
sen: Ở nguyên-văn chữ Trì-liên sen ở trong ao . Điển : Xưa có hai vợ chồng nhà họ Trương, lánh nạn giặc, cùng nhau nhảy xuống ao xen mà tự-tử. Được ít lâu sen ở ao ấy nẩy hoa, đều hai hoa chung một cọng, gọi là Tịnh-đế hay là Tịnh đầu liên
Đôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền: Tức là sen và liễu kể trên
Như chim liền cánh, như cây liền cành: Điển : Bài Trương hận ca của Bạch Cư Dị, thuật lời thề giữa đêm thất-tịch của Đường Minh Hoàng cùng Dương quí-phi tại điện Trường-sinh có câu :
"Tại thiên nguyên tác tỹ dực điểu,
tại địa nguyện vi liên lý chi".
Nghĩa là : Ở trời nguyền làm chim liền cánh, ở đất nguyền làm cây liền cành. Ví vợ chồng cùng nhau đời đời không rời nhau.
Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền: Dịch câu nguyên-văn " Quân y quan hề, thiếp sở nguyện" = Chàng nương bóng sáng-suốt ấy là sở nguyện của thiếp . Chữ quang nghĩa là vẻ vang rạng-rỡ . Kinh Dịch : Xá hoằng quang đại nghĩa là bao hàm sự sâu rộng cao dày và đầy đủ . Đây nên dịch là : Chàng nương vầng nhật, thiếp nguyền. Chữ vầng nhật, có bản viết ra "bóng nguyệt", vì nguyên chữ nôm viết theo chữ Hán, Nhật Nguyệt, có thể chép lầm.