hứa quốc: là đem thân giúp nước, Khổng trĩ Khuê có câu thơ : "Bổ trì hứa quốc thân" : vốn có nắm chặt tấm lòng đem thân giúp nước.
tỳ dân: là che-chở cho dân
Thuyền Vu: nguyên-âm đọc : "Đơn-vu" theo tiếng xưa đã thường đọc là thuyền-vu là chúa của rợ Hung-nô.
Nhục Chi: nguyên-âm đọc " Nguyệt-thị" theo tiếng xưa đã quen đọc là Nhục-chi, cũng viết là Nhục-chi, là tên nước xưa ở miền Tây Trung-hoa, sau bị rợ Hung-nô đọat mất và đem chia hai : Gọi là Đại-Nhục-chi theo nhà Hạ ở miền Hà-bắc và Tiểu Nhục-chi, ở tỉnh Cam-túc.
Mũi đòng vác: là dịch nghĩa chữ Can-qua là gươm dáo hai đòng vác thảy là khí giới cả. Kỳ môn là nơi vua Vũ-Đế hẹn các quan-sĩ bắn giỏi ở đất Lũng-tây, đúng kỳ hẹn đến họp trước điện, gọi là kỳ-môn.
Buông tên: bởi chữ "truyền tiễn", là bắn cái tên chuyền lần đi, từ vòm canh này qua vòm canh khác để làm hiệu lệnh . Câu nguyên văn dùng chữ "Hưu truyền tiễn", là thôi, bãi sự chuyền tên, tức là yên-ổn không có giặc.
treo cung: bởi chữ quải cung, treo cung là thôi đánh giặc. Đường-thi : "Phiên hải vô truyền tiễn, Thiên-sơn tảo quải cung" : "Chốn Phiên-hải không còn bắn tên chuyền, Núi Thiên-sơn cũng sớm treo cung". Ý nói bãi bỏ sự chinh chiến.
khải ca: là bài hát vui-vẻ khi đã thắng trận kéo quân về.
Thần Kinh: là một danh-từ nơi vua ở, cũng như "Đế-đô".. Ngọc-kinh và Hoàng châu đồng một nghĩa.
Chữ Thần-kinh dịch chữ Vị-ương là tên một cung điện nhà Hán ở trong chu-vi 28 dặm, xây dựng hết cung này đến điện nọ, không bao giờ nên đặt tên Vị-ương.-Kinh Thi : Dạ như hà kỳ dạ vị-ương : Đêm ra thế nào, đêm chưa sáng. Chính nghĩa vị-ương là chưa hết.
Đỉnh non khắc đá đề danh: "Đỉnh non kia" là dịch chữ "Yên-nhiên sơn" = Núi Yên-nhiên là nơi người xưa đã chạm chữ ghi công ở đấy.
[Back to the top]
cung đình: tức cung Vị-ương
dâng công: dịch chữ Hiến quắc là dâng đầu giặc đã chém.
Khúc nhạc từ: dịch ở nguyên-văn chữ Bình-hoài-tụng; điển : Cựu Đường-thư chép rằng : Khi đất Hoài, Thái đã dẹp yên thì ông Hàn-Dũ làm bài bia :"Bình-Hoài tây bi" đem những lời khen ngợi công-huân của ông Tể-Tướng Bùi Độ, nhưng thực ra thì công-lao của Lý Tố đã vào tận nước Ngô, bắt được giặc là Ngô Nguyên-Tế mới dẹp yên.
-Vợ Lý Tố là con bà Đường-an công-chúa không chịu, bèn vào tâu vua xin cải chính lời bia Hàn Dũ và khiến ông Đoàn văn Xương hàn-lâm học-sĩ làm bài bia khen Lý Tố.
Lắm bản chú-thích chỉ nói khen ông Bùi Độ- sai. Vì nói như thế mất cái ảnh hưởng của người chinh-phụ vì chồng mà sửa lại sự Bình-hoài-tụng.
Tần: tức Tần Quỳnh tự là Thúc Bão, người đời Đường, ở đất Lịch-thành, theo Đường Thái-tông đánh bọn Vương Thế-Sung, có chiến-công, được phong tước Hồ quốc-công và tặng chức Từ-châu Đô-đốc.
Hoắc: tức Hoắc Quang, tự là Tử Mạnh có công giúp Hán Chiếu-đế, đón thái-tử Xương Ấp về lên nối ngôi, sau lại bỏ Ấp lập Tuyên Đế nhớ công bèn vẽ tượng Hoắc Quang ở Kỳ-lân các.
gác Khói:bởi chữ Lăng-yên-các nghĩa là cái lầu gác cao vượt trên tâng mây khói, của Đường Thái-tông dựng để vẽ tượng các vị công-thần.
đài Lân:bởi chữ Kỳ-lân-đài của Đường Thái-tông dựng để vẽ tượng các vị công-thần.
Nền huân tướng: là sự bền-bỉ phong tước cho các tướng có công-huân, Đây dùng "nền huân-tướng" để thế chữ Mao-thư-khoán ở nguyên-văn. Mao-thư là cỏ và tranh, cũng có nghĩa là họ.
Ông Chu-công tể-tướng đời Chu, họ là Mao, khi phong người con thứ ba của ông ở đất Mao, lễ phong-tước có dùng đất ngũ sắc bao bọc bằng thứ tranh cỏ màu trắng. "Khoán" là một tấm sắt hình như tấm ngó dùng khắc ghi công-huân của người được phong tước, giữ bền lâu khỏi hư mòn. Sự phong-tước như vậy gọi là "Mao-thư khóan".
đồng hưu: bởi chữ Dữ quốc đồng hưu thích + Cùng sự vui sự lo với nhà nước.
Tô Phụ: là vợ Tô Tần, khi hàn-vi Tô Tần bỏ nhà đi du thuyết các nước láng giềng, vì ở nhà bị vợ và chị dâu khinh bỉ . Đi nước Tần nói mưu-mô cùng Huệ-Vương, Vương không dùng lại về nhà, khi về ăn-mặc rách-rưới, mặt mũi gày-gò, vào nhà thấy vợ đang ngồi trên khung cửi dệt, thấy chồng không thèm chào, làm lơ, ngồi trên khung cửi không thèm xuống. Sau Tô Tần lại đi nữa, đến nước Yên, Triệu, được dùng, các nước lân-bang cũng dùng làm tể tướng, khi về nhà đeo sáu quả ấn tể-tướng bằng vàng và phú-quí vô cùng. khi ấy vợ thấy lại quì xuống, cúi đầu xếp tai, mỗi lời Tô Tần nói mỗi dạ và mỗi phục-tùng. Tô Tần người ở Lạc-dương vốn là một người giỏi. Cho nên ở câu 393 "Chàng hẳn không như lũ Lạc-dương" mới đúng nghĩa câu nguyên=văn 453.Câu này có chữ "lũ" vì theo vần phụ phải dùng.
[Back to the top]
Lạc Dương: Tô Tần người ở Lạc-dương.
giáp: áo ra trận có kết những tấm sắt như vẩy cá để đỡ tên bắn. Cũng gọi là : Nhung-y - Chinh-y - Chiến-bào.
phong sương: là sương gió, ý nói sự lao-khổ chinh-chiến nơi cõi gió sương.
chén vàng: chén rượu bằng vàng. Nguyên văn là chữ Hà-bôi, không thể dịch, phải dịch chén vàng. Hà là ráng, bôi là chén . Nhà tu tiên dùng ba thứ thuốc Châu-sa -Thần sa - Hùng-hoàng , tán nhỏ luyện thành cái chén uống rượu sắc tím, gọi là Hà-bôi, lấy nghĩa khi rót rượu vào, rượu thắm thuốc hóa màu đỏ như màu ráng mây trên trời. Cũng gọi là Tử-hà bôi =chén ráng tím. Cổ thi : Nhất khúc thăng bình nhân tận lạc, quân vương hựu tấn tử hà bôi. Nghĩa là : một khúc hát chúc thái-bình mọi người vui hết, mà nhà vua lại uống thêm chén rượu "Tử-hà"
Vì chàng điểm phấn đeo hương não nùng: Nguyên-văn dùng chữ Vân hoàn kháo là cái mái tóc sà nhiều lớp như từng mây, là kiểu tóc trong cung cấm đẹp lắm. Và chữ Ngọc-phu-chi là vẻ da trơn như ngọc, mịn như mỡ.
Liên ngâm: là mỗi người ngâm mỗi câu thơ, nối lại thành bài thơ.
đối ẩm: là cùng đối diện với nhau, ở nguyên-văn dùng chữ Bồ-đào-tửu là rượu nấu bằng quả nho. Vương Hàn đời Đường làm bài Lương Châu-từ rằng :
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,
dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngọa sa trường quân mạc tiếu,
cổ lai chinh-chiến kỷ nhân hồi.
Rượu bồ-đào ngon rót chén"Dạ quang", muốn uống thì tiếng đàn tỳ bà giục-thúc lên ngựa giục ra đi, nhưng chưa chịu đi, hãy uống đã, uống say nằm trên bãi cát xin ai chớ cười, vì xưa nay đi đánh giặc mấy ai được về, vì lẽ ấy mà uống cho đã nư.
Dịch :
Rượu bồ đào, chén dạ quang,
Ngập ngừng mốn uống tiếng đàn giục đi .
Say nằm bãi cát ly-bì.
Xưa nay chinh-chiến người đi ai về.
trượng phu: Người đàn-ông có đủ tính-cách , trung-hiếu; nghĩa là xứng -đáng làm người trai trên đời, gọi là trượng-phu.