1.- Ngụ-ngôn lắm truyện nực cười,
Thiên-tiên mà lại đặm mùi phiền-hoa.
Huống chi lòng thế-gian ta,
Tham vàng, bỏ nghĩa cũng là thói quen.
Nhớ xưa ở chốn Đào-viên,
Bà Vương-mẫu mở thọ-diên vui mừng.
Quân-thiên-nhạc tấu vang-lừng,
Tiệc la-ỷ mở tưng-bừng xôn-xao.
II-
Hoa vương tên gọi Mẫu-đơn,
Ngọc vàng, sắm đủ mọi bàn kính dâng.
Kén người giảo-hoạt nói năng,
Cho làm chánh-sứ đề dâng lễ thành.
Quen giao-thiệp có một anh,
Náo-dương hoa đó thực rành khôn-ngoan.
Sắc phong chánh-sứ, khâm-ban,
20.- Kíp theo hộ-tống xe loan vào chầu.
Còn đương sắm-sửa cùng nhau,
Trông ra đã thấy cờ đâu rợp đường.
Cờ đề hai chữ: Cầm-vương,
Tiền hô, hậu ủng ra tuồng uy-nghi.
Rợp trời thắng ngọn tinh-kỳ,
Tiếng đà giậy khắp sơn-khê đùng-đùng.
Quân đi lẫm-liệt oai-phong,
Giao-trì cung-khuyết, nhác trông gần gần.
Cầm-vương truyền gọi sứ-thần,
Bách-thanh thiện-kiếm, thần-phong,
Tài biện-bác cũng một lòng Tô, Trương.
Tìm Mẫu-đơn kể mọi đường,
Rằng : "Vua ta thực rõ-ràng anh-quân,
Đã hay có nghĩa, có nhân,
50.-Lại gồm trí, tín, mười phân vẹn mười.
Vả xưa nay tính khác người,
Trí cao hơn cả muôn loài quần-sinh.
Tung-hoành ở chố vân-trình,
Muôn loài sinh-động, cũng đành dưới ta.
Đến đây không muốn khoe ra,
Còn nhiều tài-tử cùng là văn-nhân.
Hễ ai đức thịnh thời hơn,
Còn như phú-quí phù-vân kể gì !
Cứ trong điều ấy mà suy,
60.- Vua ta hẳn được trước đi vào mừng."
Dương-hoa lên tiếng nói rằng :
"Khôn ngoan cũng ở núi rừng một phương !
Sao bằng ta ở Lạc-dương,
Lầu Tần, vườn Hán vẻ-vang một nhà.
Vườn Kim-cốc cũng có ta,
Gặp xuân đầm-ấm rườm-rà tử-vi,
Hương xông sực-nức mọi bề,
Nhìn xem thế-giới khác gì cẩm-la.
Bấy lâu nức thiếng danh-gia,
70.- So bề phú-quí, vua ta hơn người."
Bách-thanh nghe nói, cả cười.
Rằng : "Đừng hợm của, khinh đời làm chi !
Nước ta văn-vật thiếu gì,
Kìa như Khổng-tước văn nghi ai bằng;
So tài mẫn tiệp nói-năng,
Lục-y sứ-giả và chàng Thăng-ca
Bạch-hạc có chí cao-xa,
Hải-âu tình-tính thực là tự do.
Kìa như kẻ khéo toan lo,
80.- Có anh Hoàng-điểu ở gò ung-dung.
Anh Hồng, anh Hộc lạ-lùng,
Cao-cường thủ-đoạn bay tung ngang trời.
Đại-bàng chí cả tuyệt vời,
Đường mây vùng-vẫy bên trời bay cao;
Phượng-sồ danh-giá biết bao,
Hưng-dương, Trần-bảo ai nào dám đang.
Thơ ngâm ríu-rít Oanh vàng,
Véo-von rầm-rĩ lại càng thêm thay.
Bát-âm điệu mới rất hay,
90.- Họa-mi nổi tiếng xưa nay đã nhiều.
Đẹp duyên cầm sắt kính yêu,
Uyên-ương phu-phụ dập-dìu đoan-viên.
Dốc tình bằng-hữu chu-tuyền,
Nghĩa Hồng-nhạn vẫn còn truyền xưa nay.
Nghìn thu nức tiếng khen hay,
Quạ là hiếu-điểu ngày ngày phụng thân.
Biết bao tài-tử, giai nhân,
Thật là xuất-loại, siêu-quần. chẳng ngoa !
Tiếng lành dậy khắp gần xa,
100.- Trăm phần, người há được vài phần chăng ?"
Dương-hoa lên tiếng mắng rằng :
"Gớm thay ăn nói khoe-khoang lạ đời !
Quen thân một tấc đến trời,
Khác nào như thể ếch ngồi giếng sâu. !
Trời cao nào có biết đâu,
Khoe mình nhưng đã dễ hầu hơn ai !
Dại nên ta dạy cho hay,
Đừng khoe giọng lưỡi, lại rầy có phen.
Nước ta có chú Thanh-liên.,
110.- Lòng quân-tử, dáng trung-hiền thảo-ngay ;
Hải-đường, tiên cách ai tày,
Trung-thành, Quì vốn lòng này hướng dương..
Tảo-mai. tốt số rỡ-ràng,
Thiếu-niên đã đứng đầu hàng bách quan.
Được vua yêu, có hương Lan.,
Tư-phong yểu-điệu, có nàng Ngọc-trâm..
Bấy lâu nức tiếng phương-lâm.,
Ngọc-lan đã nổi tiếng-tăm vang-lừng.
Trà-mi tên hiệu Trầm-hương,
120.- Phượng-tiên. tên lại gọi rằng Nữ-nhi.
Dung-nhan yểu-điệu phương-phi,
Tiên-đào mặt ấy có khi khuynh-thành.
Thủy-tiên cốt-cách càng xinh,
Tây-thi-cúc. dáng như hình Tây-thi,
Nhà Diêu, cửa Ngụy. thiếu gì,
Còn Phan-huyện. với Tùy-đê. cũng nhiều,
Giai-nhân, tài-tử dập-dìu,
Trai Tử-vi., gái Tiểu-kiều. tốt tươi !
Phong-lưu sang-trọng đủ mùi,
130.- Gặp xuân thì lại đầy trời hương xông.
Càng xuân hương nức càng nồng,
Dưới trần, ai dám xưng hùng cho qua !
Còn nhiều phú-quí vinh-hoa,
Kiêm toàn ngũ phúc., chúa ta hơn người".
Bách-thanh nghe nói, cả cười,
Rằng : "Mi chẳng sợ miệng đời chê-bai !
Thôi đừng khoác-lác ngõ ngoài,
Tuy mình bẻo-lẻo, nào ai tin mình.
Toàn là những giống vụ danh.,
140.- Ỷ-phong, hàm-tiếu. ra tình dâm-ô.
Như Giạ-hợp. chẳng ra trò,
Canh khuya hành-lộ. là đồ bất lương.
Cấp-tính., nóng-nảy vội-vàng,
Vinh-hoa Mộc-cận., cũng phường bỏ đi.
Bách-nhật-hồng. có ra gì,
Vô hương, hữu sắc, ai thì buồn trông.
Ngọ thời. kia mới não-nùng,
Cớ sao sớm nở, tối không thấy rồi.
Gớm thay cho gái họ Nhài.,
150.- Dưới trăng đón gió lả-lơi khoe màu.
Đa tình chi hỡi chàng Ngâu.,
Thương xuân vốn những dãi-dầu pha-phôi.
Sói, Hòe, tính cũng hay chơi,
Phù-hoa màu-mỡ có người nào khen.
Mộc kia tính-khí nhỏ-nhen,
Không ưa sơn vẽ, lại quen lúi-xùi..
Có vàng chịu giữ mà ngồi,
Cúc kia hoài-bích. ra nòi thất-phu.
Xưa kia Liễu vẫn buông tơ,
160.- Tuy rằng óng-ả nhưng xơ-xác mành.
Bao giờ Độc-dược. có lành;
Mào-gà, Phượng-vĩ mượn danh dối người.
Thôi đừng cậy tốt, khoe tươi,
Gió thu một trận đi đời phồn-hoa.!
Nói thời ra dáng ta đây,
Song người nghe thấy thực là trái tai.
Bách-thanh nói chửa dứt lời,
Dương hoa mặt đỏ như trời rạng đông.
Dầu sôi lửa dậy trong lòng,
Ra uy thét mắng đùng đùng như lôi.
Rằng : "Mi sao khéo khinh đời !
Suy-cầu. bay nỡ rậm lời làm chi.
Ngẫm xem loài giống nhà mi.
Chắc rằng hay chửa, vội đi nhiếc người.
Ưng kia tàn-nhẫn quen đời,
Nỡ thương đồng loại, đạo trời nghĩ chi.
Ác-cưu. nào có ra gì,
Con ăn thịt mẹ, kẻ chê người cười.
Yến kia vụng nghĩ rông-dài,
180.- Không lo sau trước coi trời bằng vung..
Tu-hú làm biếng lạ-lùng,
Mượn tổ chim thước để hòng nuôi thân..
Bói-cá tàn-nhẫn, bất nhân,
Ra uy cá-mú, xa gần đều kinh.
Xui người kiện-cáo đua-tranh,
Chính là tên Tước cậy mình trạng-sư..
Trông ra bóng bẩy phong-tư.,
Ăn quanh ai có tham như Giẻ-cùi.
Cú kia là giống tanh-hôi,
Quạ-khoang rộng miệng lắm lời ai ưa.
Cuốc kia kêu cũng bằng thừa,
Bởi chưng vụng liệu từ xưa mất rồi.
Chích-chòe học dốt có chuôi,
Bởi vì nhí-nhoẻn nên đuôi phất-phờ.
Công kia tính lại lẳng-lơ,
Cả ngày múa hát rõ dơ dại tuồng.
Sáo ta nóng-nảy điên-cuồng,
Quen chân nhảy-nhót là phường lăng-nhăng.
Diều-hâu vì túng, xử xằng,
200.- Mắt mày chấp-chới như thằng bợm non.
Vẹt kia lắp-bắp học khôn,
Quanh năm vẹt-vẹt, nào còn biết chi.
Đường dài nói mãi làm chi,
Chẳng qua là giống ngu-si lạ đời.
Anh nào nhan-sắc tốt-tươi,
Tham ăn, người bắt đem nuôi ở lồng.
Anh nào phì-nộn tư-phong,
Chỉ làm tôi miệng, phiền lòng mà thôi".
Người cậy đức, kẻ khoe tài,
210.- Đôi bên to tiếng như trời nổi giông.
Tiếng vang động đến tiên-cung,
Tây-vương-mẫu phái Kim-đồng bước ra.
Tức truyền thánh chỉ dạy qua:
"Thôi đừng cãi lẽ, người ta chê cười.
Kể như đức-tính hơn người,
Phượng-hoàng được nhất, sau thời Mẫu-đơn.
Nhưng mà phú-quí là hơn,
Phượng-hoàng phải kém Mẫu-đơn rành rành.
Thử xem thế-thái nhân-tình,
220.- Nhiều tiền vẫn được hiển-danh với đời.
Ưa nhân, chuộng nghĩa mấy người,
Ít tiền, dẫu đến vua tôi cũng thường,
Cha con trong đạo gia-đường,
Ít tiền cũng chả ra tuồng thân-yêu.
Anh em họ mạc dập-dìu,
Ít tiền thì cũng ra chiều buồn-tênh.
Sắt cầm phu-phụ duyên-lành,
Ít tiền thì cũng ra tình thờ-ơ.
Bạn chơi bất cứ thân sơ,
230.- Ít tiền thì chẳng bao giờ được thân.
Thói quen tiêm-nhiễm dần-dần,
Thành ra ác-tập khó phần băng-tiêu.
Ngẫm xem trong bấy nhiêu điều,
Ai ai cũng chuộng tiền nhiều là hơn.
Thôi đừng suy-tị phàn-nàn,
Phượng-hoàng phải kém Mẫu-đơn hẳn rồi".
III-
Tố-vương nghe vẳng bên tai,
Canh khuya than-thở rằng thời đức suy.
Thanh-nhàn xem tích truyện kỳ.
Đặt làm quốc-ngữ ngâm khi ngày dài.
Nôm-na xin bạn đừng cười,
Gọi là chấp-chảnh vài lời cho vui.
=HET=
|
Đào-viên: Thần tiên truyện : Vườn đào ở trên trời, cây đào ba ngàn năm mới nở hoa, ba ngàn năm mới kết quả, và ba ngàn năm quả mới chín
Vương-mẫu: tức là Tây Vương-mẫu, một vị caiquản tất cả các nữ tiên.
thọ-diên: Tiệc thọ.
Quân-thiên-nhạc: Tên một khúc nhạc ở Điện đức Ngọc-hoàng Thượng-đế.
la-ỷ: là lượt. Tiệc la-ỷ là bữa tiệc có những bậc tôn quí đến dự. Cổ thi:
Đãn nguyên quân-vương tâm,
Hoá tác quang-minh chúc,
Bất chiếu ỷ-la-diên,
Thiên chiếu đào vong ốc.
Dịch :
Xìn lòng đấng quân-vương,
Hóa làm cây đuốc sáng,
Đừng soi vào bữa tiệc ỷ-la vội,
Hãy soi vào những nhà cùng-khổ xiêu-bạt.
.
đền Giao: Đền ở Giao-trì, Chỗ Tây Vương-mẫu ở.
Náo-dương: Tên một thứ cây như loài thông.
Cầm-vương: Vua các loài chim.
Tiền hô, hậu ủng: Đằng trước có quân đi dẹp đường, đằng sau có quan đi hộ vệ.
tinh-kỳ: Các thứ cờ.
Tiếng đà: Tiếng trống, Kinh Thi có câu : đà cổ bồng bồng : trống bọc bằng da con đà kêu thùng-thùng. Đà một loài như con kỳ-đà.
sơn-khê: Núi và suối nước, cũng như núi sông.
cung-khuyết: Cung và cửa cung.
Bách-thanh: Con chim hót nhiều thứ tiếng.
chúc-hà: chúc thọ. Nguyên là "chúc ho, đọc ép vần là chúc hà
hoa-binh: Quân lính của Hoa-vương.
ngoan-cầm: Loài chim ương ngạnh.
thiện-kiếm, thần-phong: Lấy lưỡi làm gươm, lấy môi mép làm giáo, tức là ăn nói biện-bác, không ai địch nổi.
Tô, Trương: Tô-Tần, Trương-Nghi, hai nhà thuyết-khách có tiếng ở đời Chiến quốc
anh-quân: Bậc vua có trí sáng-suốt.
Lại gồm trí, tín: Theo sách của Quách-phác-tử, chim phượng đầu xanh, tượng mộc là đức nhân, cổ trắng, tượng-kim là đức nghĩa mỏ đỏ, tượng-hỏa là đức lễ, lông bụng đen, tượng-thuỷ là đức-trí, chân vàng, tượng-thổ là đức tín.
vân-trình: Đường đi trên mây.
phú-quí phù-vân: Sự giàu-sang bất-nghĩa thì không bền. Luận-ngữ có câu : Bất-nghĩa nhi phù thả quí, ư ngã như phù-vân : Bất nghĩa mà giàu-sang, đối với ta ví như đám mây nổi ở trên trời.
Lạc-dương: Tên một kinh-đô ở đời Chu, nay thuộc về tỉnh Hà-nam bên Tầu. Sự-vật kỷ nguyên : Vũ-hậu đời nhà Đường ra chơi vườn các thứ hoa đều nở, chỉ có hoa mẫu đơn không nở. Vũ-hậu giận, đem bày mẫu-đơn ra Lạc-dương. Về sao hoa mẫu-đơn ở Lạc-dương thành một thứ hoa đẹp và quí nhất nước Tầu.
Lầu Tần, vườn Hán: Đời Tần đời Hán ưa trồng mẫu-đơn ở vườn nhà vua,
Kim-cốc: Tên một cái vườn của Thạch-sùng, một người cự-phú đời Tấn.
cẩm-la: gấm vóc
Khổng-tước: Con công.
Lục-y sứ-giả: Sứ-giả áo xanh, tức là con vẹt.
Thăng-ca: Con sơn-ca.
Hải-âu: Loài chim ăn ở mặt bể.
Hoàng-điểu: Chim vàng. Kinh thi : Miên-man hoàng-điểu chi vu khâu ngưng : Chim hoàng-điểu kêu ríu-rít, đậu ở chỗ gò cao.
Anh Hồng, anh Hộc: Hồng, Hộc : hai loài chim mòng bay xa và cao.
Đại-bàng: Loài chim rất lớn ở các ngọn núi cao. Trang-Tử : Bể bắc có con cá côn hóa làm chim bằng, vỗ cánh che rợp đến chín vạn dặm...
Phượng-sồ: Con phượng non. Tam-quốc-chí : Ngọa-long là Gia-cát Lượng, Phượng-sồ là Bàng-Thống.
Hưng-dương, Trần-bảo: Hưng-vương, Trần-Bảo : là tên hai con chim trĩ thần điềm hưng vượng của các bậc vương-bá. Liệt-dị truyện : Đời Mục-công nhà tần, có người ở đất Trần-thường bắt được một con thú lạ, địng đem dâng Mục-công. Đi đường gặp hai đứa trẻ con bảo người ấy rằng :"Con thú này tên là Vị nó ăn óc người chết ở dưới đất, nên giết nó đi". Con thú kia cũng bảo người ấy rằng :"Hai đứa bé này là Trần-Bảo, tức là giống trĩ thần, ai bắt được con trống thì làm vương, ai bắt được con mái thì làm bá."
Bát-âm: Tám thứ tiếng về âm nhạc : bào, thổ, cách, mộc, thạch, kim, ti, trúc. Tiếng chim họa-mi hót cỏ đủ cả bát-âm.
Uyên-ương: Loài vịt trời, bao giờ cũng đi có đôi.
Hồng-nhạn: Loài chim bay có hàng và có đàn như loài ngỗng, loài vịt.
phụng thân: Thờ-phụng bố mẹ. Liệt-điểu truyện : Từ-ô phản bộ kỳ mẫu : Con quạ có hiếu biết mớm lại cho mẹ nó.
xuất-loại, siêu-quần: Hơn loài, vượt bọn, nghĩa là ở trên các loài, giống.
ếch ngồi giếng sâu: Sự thấy biết nhỏ hẹp, ví như con ếch ngồi trong giếng mà trông trời thì tưởng trời chỉ bằng miệng cái giếng.
Thanh-liên: Cây sen. Bài :Ái-liên thuyết" của Chu Liêm-Khê : Cây sen cuống thẳng, trong rỗng, không bò lan, không cành nhánh, mọc ở trong bùn, mà không giây bùn, thật là bậc quân-tử trong loài hoa.
hướng dương: Xoay theo bóng mặt trời. Quì : thứ hoa khi nở thì xoay theo hướng mặt trời, dùng để ví lòng trung bao giờ cũng theo vua, theo nước.
Tảo-mai: Hoa mai nở sớm. Cổ-thi : Tiên chiếm bách hoa đầu thượng khai : Chiến lên đầu trăm hoa mà nở trước.
Được vua yêu, có hương Lan: Sách Gia-ngữ chép Khổng-tử viết ; Lan vi giạ hương : Hoa lan là múi hương của đấng vương giả.
Ngọc-trâm: Tên một thứ hoa.
phương-lâm: Rừng thơm
Phượng-tiên: Trà-mi và phượng-tiên là tên hai thứ hoa,
Tây-thi-cúc: Tên một tứ hoa cúc.
Nhà Diêu, cửa Ngụy: Diệu và Ngụy là hai quí-tộc ở thời cổ bên Tàu, về sau người ta gọi thứ mẫu đơn vàng là Diê-quốc phu-nhân, mẫu đơn đỏ là Ngụy-quốc phu-nhân. Âu-dương Tu có câu : Ngụy-hồng yểu-điệu, Diêu-hoàng phì : Thứ Mẫu-đơn đỏ thì yểu-điệu, thứ vàng thì phì-nộn
Phan-huyện: Tên một xứ ở bên Tầu trồng nhiều đào.
Tùy-đê: Đường đê ở đời Tuỳ trồng nhiều liễu.
Tử-vi: Tên một thứ hoa.
Tiểu-kiều: Tên một thứ hoa.
ngũ phúc: Kinh Thư, thiên Hoàng-cực, chu thứ chín là ngũ phúc : thọ, phú, khang ninh, đủ hiếu đức, khảo chung mệnh (sống lâu, giàu có, mạnh-khỏe, làm được điều lành, trọn đời không có tai-nạn gì).
vụ danh: Ưa-chuộng hư-danh.
Ỷ-phong, hàm-tiếu: đứng hóng gió, cười tủm-tỉm. Nói người có tính tri-lơ.
Giạ-hợp: tên một thứ hoa nở về đêm.
hành-lộ: Đi lúc đêm có sương. Tên một bài hát trong kinh Thi chê người con gái bất chính.
Cấp-tính: Tên một loài cây lá dùng làm vị thuốc.
Mộc-cận: Loài dâm bụt.
Bách-nhật-hồng:Tên một thứ hoa bông tròn như quả táo.
Ngọ thời: Tên một thứ hoa, chỉ nở một lúc trưa rồi tàn ngay.
Nhài: Hoa nhài.
Ngâu: Hoa ngâu.
>lúi-xùi: Thấp hẹp nhỏ bé.
hoài-bích: Mang ngọc bích, ý nói chỉ biết giữ của. Tả truyện : Thất phu vô tội, hoài bích kỳ tội : Đứa thất phu vốn không cótội, chỉ vì mang ngọc bích mà thiệt đến thân.
Độc-dược: Tên một loài cây dùng làm thuốc, nhưng có chất độc.
phồn-hoa: Rờm-rà, hoa-mĩ.
Suy-cầu: Bởi chữ xuy mao cầu tì : Thổi lông, tìm vết.
Ác-cưu: Loài chim cú.
Không lo sau trước coi trời bằng vung: Cổ văn có câu : Yến-tước xử đường bất trị họa chi tương chí : Chim yến, chim tước làm tổ ở mái nhà, không biết lo đến sự tai-vạ, nghĩa là nếu nhà đổ hay nhà dỡ đi thì tổ sẽ tan nát,
Mượn tổ chim thước để hòng nuôi thân: Duy thước hữu sào, duy cưu cư chí . Chim tước có tổ, chim tu-hú đến ở nhờ,
Chính là tên Tước: Kinh Thi, thơ Hành-lộ có câu : Thuỳ vị tước vô giốc, hà dĩ xuyên ngã ốc : Ai bảo chim sẻ không có mỏ rắn, sao nó khoét được mái nhà ta. Ý nói ví cái xấu ở chốn dân quê chỉ thích sự kiện-cáo.
phong-tư: Giáng-điệu.
tư-phong: cũng nghĩa như phong-tư.
ác-tập: Sự tập-nhiễm xấu,
băng-tiêu:Tan đi như nước váng,
Tố-vương: Một danh-hiệu dùng để tôn-xưng đức Khổng-tử. Ngài có đức đáng làm đấng vương-giả mà không có ngôi vương-giả, cho nên gọi là Tố-vương.
thời đức suy: Đạo-đức ở đời suy-kém mất rồi. Luận-ngữ : Tiếp-Dư thấy đức Khổng-tử, than rằng : "Phượng hề, phượng hề, hà đức chi suy : Chim phượng ôi ! chim phượng ôi ! sao đời suy thế ". Đây vì phượng phải đi sau mẫu-đơn, cho nên mới dùng hai chữ "đức suy".