Trăm năm: bởi chữ bách tuế (trăm tuổi); một đời người
chỉ hồng: bởi chữ xích thằng. Điển Vi-Cố đêm đi chơi gặp ông già ngồi xem sách dưới trăng, tay cầm dây tơ đỏ. Hỏi ông, đáp rằng: Sách để chép tuổi, dây tơ để buộc duyên phận. Những ai đã có tên ghi vào sách này thời dù người thù hay ở nước khác cũng phải lấy nhau.
dung-hạnh: người có dung nhan đẹp và có tính hạnh tốt. Tài danh: người có tài và có danh.
Khí thiêng: là linh thiêng tinh-tú của non sông ung đúc sinh ra người quí.
Bình-chương: tức là Tể-tướng.
gác vàng: gác sơn màu vàng, nơi công-thự của quan tể-tướng.
Phó, Y: Phó Duyệt, một vị tể-tướng giỏi đời Ân. Y: Y-Doãn, một vị hiền-tướng đời Thương.
môn-mi: bảng treo trên của để chỉ sự sang quí của các nhà thế gia.
lân-nhi: lân con, chỉ sự quí báu.
nhảy phượng, cỡi kình: nhảy cao như phụng bay. Cỡi Kình: cỡi cá kình. Ý nói có tài học cao.
[Back to the top]
Gia-quan: lễ đội mão. Con trai 20 tuổi gọi là gia-quan.
nhà huỳnh: nhà học.
huyên-đình: nợi mẹ ở.
thôn dâu: làng trồng dâu. Cây dâu dùng để nuôi tằm, nên thường hay trồng trong làng của cha mẹ ở - nên phải kính trọng.
Thẻ rồng: xưa dùng cái chậu đồng chạm hình rồng, dùi lỗ cho nước dỏ. Trong chậu có khắc từng khoảnh. Mỗi khi nước dỏ lưng đ61n khoảnh nào thì bỏ một cái thẻ để đếm khác và giờ trong ngày đêm.
đôi uyên: chim uyên ương, thường sống có đôi.
doành: vũng nước bao la.
lộ, âu: con cò trắng. Âu: một loài chim bể, chim sông.
giếng cúc: Cúc tỉnh. Sách Phong-tục-thông chép ở huyện Ly, đất Nam-dương có suối Cam-cốc có nước trong và ngon, trên núi lại có lắm cúc. Nước suối Cam-cốc thấm chảy quanh vùng ấy. Người được uống nước ấy được sống lâu nên có danh lá cúc tỉnh.
non đào: sách Liêt-tiên tryuện chép ở huyên Nga-My, tỉnh tứ-Xuyên có núi My-sơn có lắm cây đào, ăn qủa được sống lâu và thành tiên.
[Back to the top]
Hàn-huyên: lạnh ấm, cũng như hàn ôn.
Tiêm, giá: là cái thẻ viết tên bộ sách để tiện việc khi tìm. Giá: tủ để sách.
chân: một lối chữ viết. theo lối chữ thực trái với lối chữ viết thảo là lối chữ viết nhanh.
Cầm-giao: cây đàn khảm ngọc giao.
ngư: người chài cá.
Mẫu đơn: một thứ hoa chỉ nước Tàu mới có. Có bốn sắc: trắng, vàng, tím, đỏ.
Xạ: một thứ hương rất thơm dùng để ướp áo và làm thuốc.
thu-ba: sóng mùa thu. Mùa thu thường có nhiều nước ở các ao, hồ, sông, lạch, nên làm tăng thêm vẻ đẹp cho phong cảnh. Con mắt mỹ nhân thường ướt và và sắc-sảo nên ví với nước mùa thu.
mắt xanh: do chữ thanh nhản. Ông Nguyễn-Tịch đời Tấn mỗi khi đối với người vừa ý thí ông ngó ngay, con mắt thấy tròng đen, tức là mắt xanh.
chìm cá rơi nhàn: do chữ "trầm ngư lạc nhạn". Đẹp đến nỗi cá thấy phải chui vào chỗ sâu, chim thấy phải bay cao.
mật sắc: do chữ sắc đảm, ý nói người bạo-dạn, to gan.
Nàng Hồng: Hồng là nữ tỳ của Tôi Oanh Oanh, người đưa tin tức và làm mai mối giữa Trương-quân-Thụy và Thôi Oanh Oanh trong truyện Mái Tây (Tây sương ký).
Đào trên mây, hạnh trên trời: ý nói hai thứ ấy sang quí và cao xa quá.
Động khóa nguồn phong: khoá của động, đóng nẻo nguồn, không để cho ai được vào.
Hàn: Quảng Hàn cung: cung điện trên mặt trăng.
Ngân: là bạc, tiếng nói tắt của chữ Ngân hà, Ngân hán, Ngân hòang. Ban đêm ta thấy một làn sao nhỏ xa trông như một vệt bạc trắng giữa lưng trời.
Lãng:tức là Lãng-uyển : vườn của tiên chơi.Bồng, tức Bồng-lai, tên một hòn đào của tiên ở ngoài bể.
Thợ trời:bởi chữ Hóa-công. Bài phú của Gỉa Nghị có câu: Thiên địa vi lô, tạo hóa vi công : nghĩa: trời đất làm cái lò, đấng tạo-hóa làm thợ, do đó mà người ta dùng chữ thợ trời.
điêu:xưa đi đánh giặc thường dùng cái chiêng đồng để thúc giục quân-sĩ. Chiêng ấy đựng được một đấu gạo, nên cũng dùng để nấu cơm nên gọi là Điêu-đẩu.
tuyết:là tên ông triệu mạnh Phủ hiệu là Tùng Tuyết đạo-nhân, người Tống, có tài viết chữ rất đẹp, có thiếp chữ của ông ấy truyền ở đời.
[Back to the top]
đồng:tức là cây Ngô-đồng nggười ta dùng làm mặt đàn, tiếng kêu trong và dài. Phả đồng : là bản đàn chép thành phả, túc là sách dạy đàn.
má đào:người con gái đẹp như hoa đào,
Cánh hồng:do chữ Hồng-đoàn hay Hồng-phi :chim Hồng bay thường cao hơn các loài chim, ví người có tài cao học rộng.
chỉ dắt, tơ trao:lấy tích ông Trương gia Chân đời Đường có 5 người con gái, muốn gả một người cho Quách nguyên Chân. Ông bảo 5 người con ở trong màn thêu cầm mỗi người một sợi chỉ sắc khác nhau, rồi bảo Quách nguyên Chân đúng ngoài màn chọn một sợi.Chân chọn sợi chỉ màu hồng, quả được cô gái đẹp mà Chân dã để ý.
huỳnh-song:cửa sổ con đom đóm. Bởi điển Trác Dận, nhà nghèo, bắt đom đóm bọc trong giấy thế đèn mà học đêm.
Gương nga:bóng trăng. Nghĩa bóng cái gương của Hằng Nga,
cung thiềm:thiềm là con cóc; cung là cung điện. Nghĩa bóng là mặt trăng. Mặt trăng có những chữ cung thiềm, cung quế, cung hằng, gương nga, bóng thỏ.
Phụng-cầu:tức Phụng-cầu-hoàng: một kúc đàn rất hay. Tư-mã Tương Như đàn khúc ấy, nàng Trác văn Quân phải bỏ nhà mà theo.
đài:là cái đế cao để lót cái chén nước.
đệm thúy:đệm thêu bằng lông chim phỉ-thuý, có sắc lục non tươi pha lẫn mùi xanh đậm.
[Back to the top]