Lục-Vân-Tiên

19.- Vân-Tiên nhờ thuốc tiên sáng mắt, bỏ chùa, giã-từ Hớn-Minh về thăm cha (câu 1665 - câu 1736)

Đoạn này tới thứ ra đời,
Vân-Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kể từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm-thoát kể đà sáu năm.
1671.- Tuổi cha rày đã năm-lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm-đầm nhỏ sa.
Vân-Tiên tính trở lại nhà,
Hớn-Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng: "Ta lại hồi hương,
"Ơn nhau sau gặp khoa-trường sẽ hay."
Minh rằng: "Tôi vốn chẳng may,
"Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
"Dám đâu bày mặt ra thi,
"Đã đành hai chữ qui y chùa này."
1681.- Tiên rằng: "Phước gặp khoa này."
"Sao sao cũng tính sum-vầy cùng nhau.
"Mấy năm hẩm hút tương rau,
"Khó nghèo nỡ phụ, sang giầu đâu quên.
"Lúc hư còn có lúc nên,
"Khuyên người giữ dạ cho bền thảo ngay."
Hớn-Minh trở lại am mây,
Vân-Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục-ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè còn sống trên đời thấy cha.
1691.- Xóm-giềng cô-bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng: "Kể đã mấy năm,
"Con mang tật bệnh ăn-nằm nơi nao?"
Thưa rằng: "Hoạn nạn xiết bao,
"Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an ?"
Đặt bày lễ-vật nghiêm-trang.
Đọc bài văn tế trước bàn minh-sinh.
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
"Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
1701.- "Tưởng bể nguồn nước cội cây,
"Công sâu ngàn trượng, ngãi dày chín trăng.
"Suy trang nằm giá khóc măng,
"Hai mươi bốn thảo chẳng bằng đời xưa."
Vân-Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng: "Có nàng Nguyệt-Nga,
"Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
"Nhờ nàng nên mới ra bề,
"Chẳng thì khó đói bỏ quê hư rồi."
1711.- Vân-Tiên nghe nói hỡi ôi!
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng: "Nàng ấy ở đâu?
"Đặng con đến đó đáp câu ân-tình."
Lục-ông thuật việc triều-đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
"Kiều-công rày ở Tây-Xuyên,
"Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra."
Tiên rằng: "Cám nghĩa Nguyệt-Nga,
"Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng."
1721.- Tây-xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều-công khóc liền:
"Nguyệt-Nga rày ở Tây-phiên,
"Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng.
"Mấy thu Hồ Việt đôi phang,
"Chẳng qua máy tạo én-nhàn rẽ nhau.
"Thấy chàng dạ lại thêm đau,
"Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành?
"Hẹp-hòi đặng chút nữ-sinh,
"Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu-đơn."
1731.- Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn,
"Cùng nhau một sự oán hờn nên gây.
"Thôi con ở lại bên này,
"Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già."
Vân-Tiên từ ấy lân-la,
Ôn-nhuần kinh-sử chờ khoa ứng kỳ.

. 20.- Vân-Tiên ra kinh thi đậu trạng-nguyên. Vua sai đi dẹp giặc Ô-qua với Hớn-Minh (câu 1736 - câu 1802)

Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân-Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân-đường,
Kinh-sư ngàn đặm một đường thẳng ra.
1741.- Vân-Tiên dự trúng khôi khoa,
Đương trong nhâm-tí thiệt là năm nay,
Nhớ lời thầy nói thật hay :
"Bắc-phương gặp chuột con rày nên danh."
Vân-Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão cho vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô-qua,
Phủ vây quan-ải binh ba bốn ngàn.
Sở-vương phán trước ngai vàng,
Chỉ sai quốc-trạng dẹp loàn bầy ong.
1751.- Trạng-nguyên tâu trước bệ rồng :
:Xin dâng một tướng anh-hùng đề binh,
"Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
"Ngày xưa mắc án đày di,
"Phải về nương-náu từ-bi ẩn mình."
Sở-vương phán trước triều-dình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó-tướng binh đề.
Tiên, Minh, từ ấy xiết gì mừng vui.
1761.- Nhất thinh phấn phát oai lôi,
Tiên-phuông hậu-tập trống hồi tấn binh.
Quan-sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô-qua,
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha ngay chúa mới là tài danh.
Phút đâu binh đáo quan thành,
Ô-qua xem thấy thối binh di đồn.
Tướng phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hỏa Hổ, một chàng Thần Long.
1771.- Lại thêm Cốt Đột nguyên-nhung,
Mắt hùm râu đỏ, tướng hung lạ-lùng.
Hớn Minh ra sức tiên-phong,
Đánh chàng Hỏa Hổ, Thần Long một hồi.
Hớn Minh đánh xuống một roi,
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên-nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hóa phép thoát mình trở lui.
1781.- Vân-Tiên đầu đội kim-khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô.
Một mình lướt trận xông vô.
Thấy ngươi Cốt Đột biến hô yêu-tà.
Vội-vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu-ma xem thấy một giờ vỡ tan,
Sa-cơ Cốt Đột chạy hoang,
Vân-Tiên giục ngựa băng ngàn đuổi theo.
1791.- Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao.
Chạy ngang qua núi Ô-sào,
Phút đâu con ngựa sa hào, thương ôi!
Vân-Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn-quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đàng núi phút đà tam canh.
1801.- Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ-trình trở ra.

21.- Vân-Tiên gặp Nguyệt-Nga, về tâu vua. Ơn đền, oán trả rồi về vinh qui cưới nàng Nguyệt-Nga (câu 1803 - câu 2076)

Đoạn này tới thứ Nguyệt-Nga,
Ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya chong ngọn đèn ngồi:
"Chẳng hay trong dạ bồi-hồi việc chi,
"Quan-Âm thuở trước nói chi,
"Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
"Đã đành đá nát vàng phai,
"Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau ?"
Nguyệt-Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe nhạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
"Đường về quan-ải chỉ ra cho cùng."
Nguyệt-Nga ngồi sợ hãi-hùng,
Vân-Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão-bà lật-đật hỏi chào:
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
1821.- Vân-Tiên mới nói sự tình:
"Tôi là quốc-trạng trào-đình sai ra.
"Đem binh giẹp giặc Ô-qua,
"Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây."
Lão bà nghe nói sợ thay:
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già."
Vân-Tiên ngồi nhắm Nguyệt-Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
"Khen ai khéo vẽ dung-nghi giống mình.
1831.- "Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
"Lão-bà khá nói tính danh cho tường.
Lão-bà chẳng dám lời gian:
"Tượng nầy vốn thiệt chồng nàng ngồi đây."
Tiên rằng nàng xích lại đây,
"Nói trong tên họ tượng nầy ta nghe."
Nguyệt-Nga lòng rất kiên-dè,
Mặt thời giống mặt còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân-Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
1841.- Rằng sao nàng chẳng nói đi,
"Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt-Nga khép nép thưa qua:
"Người trong bức tượng tên là Vân-Tiên.
"Chàng đà về chốn cửu tuyền.
"Thiếp lăm trọn đạo lánh miền gió-trăng."
Vân-Tiên nghe nói hỏi phăng:
"Chồng là tên ấy vợ là tên chi?"
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân-Tiên vội-vã xuống quì vòng tay,
1851.- Thưa rằng: "May gặp nàng đây,
"Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
"Để lời thệ hải minh sơn,
"Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
"Vân-Tiên vốn thiệt là tôi,
"Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ."
Nguyệt-Nga bảng-lảng bơ-lơ,
Nửa tin rằng bạn nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng: "Đã thiệt tên ngài,
"Khúc-nôi xin cứ đầu bài phân qua."
1861.- Vân-Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt-Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân-tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn-rịn trời vừa sáng ngay.
Xảy nghe quân ó vang-dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can-qua.
Vân-Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn-Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng-rỡ tỏ tình cùng nhau.
1871.- Minh rằng: "Tẩu tẩu ở đâu,
"Cho em ra mắt chị dâu thế nào?
Vân-Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt-Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng: "Tưởng chị ở Phiên,
"Quyết đem binh mã qua miền Ô-qua.
"May đâu sum-hiệp một nhà."
"Giặc đà an giặc, khải ca hồi trào."
Tiên rằng nàng tính thế nào?"
Nàng rằng: "Anh hãy về trào tâu lên.
1881.- "Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
"Lệnh tha tội trước mới nên về nhà."
Trạng-nguyên từ-gĩa lão-bà,
Dặn-dò gởi lại Nguyệt-Nga ít ngày:
"Ta về đem bức tượng nầy,
"Tâu cho khỏi tội rước ngay về nhà."
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều-ca đề-huề.
Sở-vương nghe trạng-nguyên về,
Sai quân tiếp rước vào kề bên ngai.
1891.- Sở-vương bước xuống kim giai,
Tay bưng chén rượu thưởng ngài trạng-nguyên,
Phán rằng: "Trẫm sợ nước Phiên,
"Có người Cốt Đột phép tiên lạ-lùng.
"Nay đà trừ Cốt Đột xong,
"Thiệt trời sinh Trạng giúp trong nước nhà.
"Phải chi trước có Trạng ra,
"Làm chi nên nỗi Nguyệt-Nga cống Hồ."
Lệnh truyên mở yến trào đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô-qua rồi.
1901.- Trạng-nguyên quì tấu một hồi.
Nguyệt-Nga các việc khúc-nôi rõ-ràng.
Sở-vương nghe tấu ngỡ-ngàng,
Phán rằng: "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên.
"Chẳng ngờ nàng với Trạng-nguyên,
"Cùng nhau trước có nhân-duyên thuở đầu."
Tháì-sư trước bệ quì tâu:
"Ô-qua dấy động qua mâu cũng vì.
"Trá hôn oán ấy nên gây,
"Nguyệt-Nga nàng thiệt tội thì khi quân."
1911.- Trạng nguyên mặt đỏ phừng-phừng,
Bèn đem bức tượng làm bằng.
Sở-vương xem tượng phán rằng;
"Nguyệt-Nga trinh-tiết ví bằng người xưa,
"Thái-sư trước chẳng lo lừa,
"Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng.
"Dầu cho nhật-nguyệt rõ-ràng,
"Khôn soi chậu úp cũng mang tiếng đời.
"Ngay gian sao cũng có trời,
"Việc nầy vì trẫm nghe lời nên oan,
1921.- Trạng-nguyên tâu trước trào đàng.
"Thái-sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
"Trịnh Hâm là đứa gian-tà,
"Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen."
Sở-vương phán trươc bệ tiền:
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi.
"Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
"Thái-sư ý muốn cướp ngôi chín trùng.
"Hán xưa có gã Đổng-công,
"Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng nhà Lưu.
1931.- "Đời xưa tôi nịnh biết bao,
"Thái-sư nay cũng khác nào thời xưa.
"Thấy người trung-chính chẳng ưa,
"Rấp ranh kế độc lập lừa mưu sâu.
"Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
"Ấy là mới hết người sau gian-tà."
Sở-vương phán trước trào ca,
Thái-sư cách chức về nhà làm dân,
Trịnh Hâm là đứa bạo-thần,
Giao cho quốc-trạng xử phân pháp-hình.
1941.- Nguyệt-Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận-chúa hiển-vinh rỡ ràng.
Kiều-công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông-thành.
Trạng-nguyên dẹp giặc đã thành,
Kiệu trương tán phụng cho đành vinh-hoa.
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng-nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương, họ Hớn, họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu, đều vui, đều cười.
1951.- Trạng-nguyên mới hỏi một lời:
"Trịnh Hâm tội ác các người tính sao ?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh,
Minh rằng: "Ai mượn kêu anh ?
"Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
"Kéo ra chém quách cho rồi,
"Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan."
Trực rằng: "Minh nóng nói ngang,
"Giết ruồi đâu xứng gươm vàng làm chi.
1961.- "Xưa nay mấy đứa vô nghì,
"Dầu cho có sống làm gì nên thân ?"
Hâm rằng: "Nhờ lượng cố-nhân,
"Vốn em mới dại một lần xin dung.
Trạng rằng: "Hễ đứng anh hùng,
"Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
"Thôi thôi ta cũng rộng suy,
"Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi.
Hâm rằng: "Khỏi giết rất vui,"
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
1971.- Còn ngươi Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như về thịt trâu.
Hớn Minh, Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc-trạng kịp chầu vinh qui.
Một ngươi Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ-thẹn mình vì máu dê.
Trạng-mguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ-vệ rước về Nguyệt-Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt-Nga từ-tạ thẳng qua Đông-thành.
1981.- Võng điều, gươm bạc, lọng xanh,
Trạng-nguyên, Tử-trực, Hớn-Minh lên đàng.
Trịnh Hâm về tới Hàn-giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ nầy rất ưng.
Thấy vầy nên dửng-dừng-dưng,
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu-đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
1991.- Của đi khuyên-giáo mấy năm,
Tính đem hài-cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ-thẩn vào ra Đại-đề.
Trạng-nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc, lo bề tế riêng:
"Tiểu-đồng hồn bậu có thiêng,
"Thảo tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay."
Đọc văn nhớ tới châu mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
2001.- Người ngay Trời Phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu-đồng đến coi.
Trạng-nguyên còn hãy sụt-sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền.
Tiểu-đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng:
"Ông nầy sao giống Vân-Tiên cũng kỳ ?
"Ông nào mất xuống âm-ti,
"Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
Trạng -nguyên khi ấy hỏi chàng:
"Phải ngươi Đồng-tử mắc nàn chốn ni?"
2011.- Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng-cay từ ngằn.
"Ai dè còn thấy bổn-quan,
"Ba năm gìn-giữ mồ hoang đã rồi."
Trạng-nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum-hiệp tại nơi Đại-đề.
Tuần-du phút đã gần kề Hàn-giang.
Võ-Công từ xuống xuối vàng,
Thể-Loan cùng mụ Quỳnh-Trang đeo sầu.
2021.- Mẹ con những mảng lo âu,
Nghe Vân-Tiên sống gặp chầu công-danh.
Cùng ta xưa có ân-tình,
Phải ra đón rước lộ trình họa may.
Loan rằng: "Mình ở chẳng hay,
"E người còn nhớ những ngày trong hang."
Trang rằng: "Con có hồng nhan,
"Cho chàng thấy mặt thời chàng cũng ưa.
"Ví dầu còn nhớ tích xưa,
"Mẹ con ta lại đổ thừa Võ-Công,"
2031.- Cùng nhau bàn-luận đã xong.
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên.
Nay đà tới thứ Trạng-nguyên,
Hàn-giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng, châu-báu, áo quần,
Trạng-nguyên đem tạ đáp ơn ngư, tiều,
Ngư, tiều nay đặng danh bêu,
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng-nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh-Trang đã đứng kề trong quân.
2041.- Trang rằng: "Tưởng chữ hôn nhân,
"Mẹ con tôi đến lễ mừng Trạng-nguyên.
"Võ-Công đã xuống huỳnh tuyền,
"Xin thương lấy chút thuyền-quyên phận nầy."
Trạng rằng: "Bưng bát nước đầy,
"Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong.
"Oan-gia nợ ấy trả xong.
"Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi."
Hớn-Minh, Tử-Trực đứng coi,
Cười rằng: " Hoa khéo làm mồi trêu ong.
2051.- Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
"Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi ?
"Ca ca sao chẳng chịu đi.
"Về chotẩu-tẩu để khi xách giày."
Mẹ con đứng thẹn thuồng thay,
Vội-vàng cúi lạy chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp chạy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương-tòng
2061.- Bốn bề đá lấp bịt-bùng,
Mẹ con than-khóc khôn trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết ngãi sâu,
Gặp cơn hoạn-nạn cùng nhau cho tròn.
Đừng đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp, tiếng còn bia danh.
Trạng-nguyên về đến Đông-thành,
Lục-ông trước đã xây dinh ở làng.
2071.- Bày ra sáu lễ sẵn sàng,
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt-Nga.
Sui-gia đã xứng sui-gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh-thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời.

_ C h u n g _

|

Chú thích: