Tây-minh: Truyện Tây-minh là bộ truyện nói về gì, xưa nay không mấy người dám chú-thích rành-rọt, vì lẽ dễ hiểu là ít người được rạ bộ truyện ấy. Có điều có thể đoán biết là bộ truyện ấy đã nói về một cuộc hôn-nhân mà mà người chủ hôn trước hựa sau lại lấy lời, vì thế cụ đồ Chiểu nhân thấy cuộc đời của mình cũng có quãng đời giống người trong truyện ấy, nên khi cụ Đặt quyển truyện bằng thơ "Lục Vân Tiên", cụ liền nghĩ ngay đến tập truyện Tây-minh mà cụ đã có xem kia, mới đem lên mào đầu để nói tổng-quát toàn quyển Lục Vân Tiên mà cụ sẽ diễn-tả lần-lượt. Và nhân-vật chính trong truyện của cụ; chàng Lục Vân Tiên chính là phản-ảnh của cụ.
1.- Vân-Tiên tạ thầy xin về đi thi (câu 1 - câu 76)
1.- Trước đèn xem truyện Tây-minh,
Gẫm cười hai chữ nhân-tình éo-le.
Hỡi ai lẳng-lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước, lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu,
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông-thành,
Tu nhân tích đức, sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục-vân-Tiên,
Tuổi vừa hai tám, nghề chuyên học-hành.
11.- Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao.
Văn đà khởi phụng đằng giao,
Võ thêm ba lược, sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Văn-Tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
"Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần .
"Nay đà gặp hội phong vân,
"Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
21.- "Chí lăm bắn nhạn ven mây,
"Danh tôi đặng rạng, tiếng thầy bay xa.
"Làm trai trong cõi người ta,
"Trước lo báo bổ sau là hiển vang."
Tôn sư bàn luận tai nàn,
Gẫm trong số-hệkhoa tràng còn xa.
Mây trời chẳng dám nói ra,
Xui thầy thương tớ xót-xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong,
Phải toan một phép để phòng hộ thân.
31.- "Rày con xuống chốn phong trần,
"Thầy cho hai đạo phù thần đem theo.
"Chẳng may mà gặp lúc nghèo,
"Xuống sông cũng vững, lên đèo cũng an."
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân-Tiên ngơ ngẩn lòng càng sanh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
"Tôn sư người dạy khoa kỳ còn xa?
"Hay là bối rối việc nhà?
"Hay là đức bạc hay là tài sơ?
41.- "Bấy lâu lòng những ước mơ,
"Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?"
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngỏ sau ngàn dặm đăng trình mới an.
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng: "Vạn lý trường đồ,
"Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
51.- "Hay là con hãy hồ-nghi,
"Thầy bàn một việc khoa kỳ ban trưa?"
Vân-Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu-sinh chưa biết nắng mưa buổi nào?
"Song đường tuổi hạc đã cao,
"Xin thầy nói lại âm hao con tường."
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng,
Nhân cơ tàng sự dặn rằng:
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
61.- "Tuy là soi khắp mọi nơi,
"Khi mờ, khi tỏ, khi vơi, khi đầy.
"Sao con chẳng rõ lẽ nầy,
"Lựa là con phải hỏi thầy làm chi?
"Số con hai chữ khoa kỳ,
"Khôi tinh đã rạng, Tử-vi thêm lòa.
"Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
"Thỏ vừa ló bóng, gà đà gáy tan.
"Bao giờ cho tới bắc phang,
"Gặp chuột ra đàng, con mới nên danh.
71.- "Sau dầu Đặng chữ hiển-vinh,
"Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai.
"Trong cơn bỳ cực thái lai,
"Giữ gìn cho vẹn việc ai chớ sờn."
Vân-Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn một lời.
2.- Vân-Tiên lên đường gặp lũ sơn-đài (câu 77 - câu 136)
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi ngó lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên các nhất phương,
"Thầy đeo đoạn thảm, tơ vương mối sầu.
81.- "Quản bao thân trẻ dãi-dầu,
"Mang đai Tử-Lộ, quảy bầu Nhan Uyên.
"Bao giờ cá nước gặp duyên,
"Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay.
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
91.- Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non.
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con!
"Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
Dân rằng: "Tiểu tử là ai?
"Hay là một đảng sơn-đài theo tao?"
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
"Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời."
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau đứng lại bày lời phân qua:
101.- "Nhân rày có đảng lâu la,
"Tên rằng đỗ Dự, hiệu là Phong-Lai.
"Nhóm nhau ở chốn sơn-đài,
"Người đều sợ nó có tài khôn đương.
"Bây giờ xuống cướp thôn hương,
"Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
"Xóm làng chảng dám nói chi,
"Cám thương hai gã nữ-nhi mắc nàn!
"Con ai vóc ngọc mình vàng,
"Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng.
111.- "E khi mắc đảng hành hung,
"Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu.
"Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
"Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình"
Vân-Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
"Tôi xin ra sức anh hào,
"Cứu người cho khỏi lao đao buổi này."
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
"Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành.
121.- "E khi hoạ hổ bất thành,
"Khi không mình lại xô mình vào hang."
Vân-Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy, tìm đàng chạy vô.
Kêu rằng: "Bớ đảng hung đồ!
"Chớ quen làm thói hồ-đồ hại dân."
Phong-Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
"Trước gây việc dữ tại mầy,
"Truyền quân bốn phiá phủ vây bịt-bùng."
131.- Vân-Tiên tả đụt hữu xông,
Khác nào Triệu-Tử phá vòng đương-dang.
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong-Lai trở chẳng lập tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
3.- Vân-Tiên cứu Kiều Nguyệt-Nga (câu 137 - câu 236)
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than khóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
"Sa cơ nên mới lầm tay hung đồ.
141.- "Trong xe chật hẹp khôn phô,
"Cúi đầu trăm lạy, cứu cô tôi cùng."
Vân-Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
"Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
"Nàng là phận gái, ta là phận trai.
"Tiểu thư con gái nhà ai,
"Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ.
"Chẳng hay tên họ là chi?
"Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
151.- "Trước sau chưa hãn dạ nầy,
"Hai nàng ai tớ, ai thầy nói ra?"
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt-Nga,
"Con này tỳ-tất tên là Kim-Liên.
"Quê nhà ở quận Tây-xuyên,
"Cha làm tri-phủ ở miền Hà-khê.
"Sai quân đem bức thư về,
"Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
"Làm con đâu dám cãi cha,
"Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành!
161.- "Chẳng qua là sự bất bình,
"Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
"Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
"Tiết trăm năm cũng bỏ đi một hồi.
"Trước xe quân tử tạm ngồi,
"Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa:
"Chút tôi liễu yếu đào thơ,
"Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
"Hà khê qua đó cũng gần,
"Xin theo cùng thiếp đền ơn cho chàng.
171.- "Gặp đây đương lúc giữa đàng,
"Của tiền không có, bạc vàng cũng không.
"Gẫm câu báo đức thù công,
"Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi."
Vân-Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn.
"Này đà rõ Đặng nguồn cơn,
"Nào ai tính thiệt so hơn làm gì?
"Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
"Làm người thế ấy cũng phi anh-hùng.
181.- "Đó mà biết chữ thỳ chung,
"Lựa là đây phải theo cùng làm chi."
Nguyệt-Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện-thiếp đi đường,
"Chẳng hay quân-tử quê-hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân-Tiên há nỡ lòng nào phôi-pha:
"Đông-thành vốn thiệt quê ta,
"Họ là Lục-thị, tên là Vân-Tiên."
191.- Nguyệt-Nga vốn đấng thuyền-quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
"Xin đưa môt vật để cầm làm tin.
Vân-Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt-Nga liếc thấy càng thìn nết na:
"Vật chi một chút gọi là,
"Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
"Của này là của vất vơ,
"Lòng chê cũng phải, mặt ngơ sao đành!"
201.- Vân-Tiên khó nổi làm thinh,
Chữ ơn buộc lại chữ tình lây-dây.
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
"Ơn kia đã mấy, của nầy rất sang.
"Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
"Một lời cũng nhớ, ngàn vàng chẳng phai.
"Nhớ câu trọng ngãi khinh tài,
"Nào ai chịu lấy của ai làm gì."
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
"Vốn chưa biết lẽ có khi mất lòng.
211.- "Ai dè những đấng anh hùng,
"Thấy trâm thôi lại thẹn thùng cùng trâm."
Riêng than: "Trâm hỡi là trâm!
"Vô duyên chi mấy ai cầm mà mơ?
"Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
"Thiếp xin đưa một bài thơ giã-từ."
Vân-Tiên ngó lại rằng: "Ừ,
"Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu."
Nguyệt-Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu năm vần.
221.- "Thơ rồi này thiếp xin dâng,
"Ngửa trông lượng rộng văn-nhân thể nào?"
Vân-Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ-nữ, cũng tày Từ-phi.
Thơ ngâm dũ xuất dũ kỳ,
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân-Tiên họa lại một bài trao ra.
231.- Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hòa vận mai.
Có câu xúc cảnh hứng hoài,
đường xa vọi vọi, dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau ta đã cạn lời thời thôi.
|
|
Chú thích:
Theo sự khảo-sát của ông Ngạc-Xuyên Ca văn Thỳnh thì: "Truyện Tây-minh" là nguồn gốc của bổn thơ: mà bổn chép viết chữ Minh là ghi vào, bổn in lại chữ "Minh" là sáng. Rất tiếc là tìm không được bổn truyện chữ Hán "Tây-minh" được biết ra chữ "Minh" nào mới đúng, lại nhất là được biết ra nguồn-gốc thơ Lục Vân Tiên, để hiểu thêm tâm-lý của tác giả, cũng như có người tìm ra nguồn gốc truyện Kiều và truyện Hoa-tiên.
Nếu "Tây-minh" viết chữ minh theo bản chép thì chỉ thấy bài văn quí giá, đầy triết lý của Trương Tải, nhà Tống trong sách Tính-lý, chứ không thấy truyện Tây-minh nào để tên thế ấy. Hay là chúng tôi chưa sưu-tầm được chăng ?
trung hiếu: Trung :lòng ngay-thẳng đúng muc. Hiếu: đạo làm con kính thờ cha me.
tiết hạnh: tiết: lóng, mác, chi về sự ngay-thẳng, giữ gìn (Thân trúc khô nhưng thẳng lóng- Thơ Trần danh án đời Lê Mạc). Hạnh: nết-na.
Đông-thành: môt quận chỉ có trong trí tưởng của tác-giả. Tuy trên bực dư đồ ở nước ta, Tàu hay đâu khác, cũng có cái tên Đông-thành, nhưng đừng lầm nghĩ đến đó chi cho mất công. (Ai như giáo-sư Paul Midan đã ra công dịch bản tuồng "Kim-Thạch kỳ-duyên" của cụ Bùi hữu Nghĩa, lại tỳ mỳ tra-cứu những địa danh trong bản ấy !) .Tuy nhiên, quận Đông-thành ở Lục Vân Tiên đây là ý tác giả liên tưởng tới đất "Đông-phố (Gia-định vậy).
(Trời Đông-phố vận ra Sóc cảnh...-Văn tế trận vong tướng-sĩ của tiền-quân Nguyễn văn Thành)
Tu nhân tích đức: sửa viêc nhân, chữa việc công-đức.
học-hành: Học và đem sở học ra thi-hành.
nấu sụ xôi kinh: thành-ngữ chỉ về việc chịu khó học-tập
sân Trình: thành-ngữ chỉ về trường học Nho. Trình-tử, một bậc đại-hiền. Cũng như cửa Khổng (tức Khổng-tử)
đà: do tiếng đã chuyển ra.
khởi phụng đằng giao:Phụng dậy rồng bay .Thành ngữ chỉ về sự hay giỏi. Văn đà tức là văn chương khác thường
ba lược, sáu thao: Tực tam lược lục thao: tên bộ sách của Thái công Vọng tức Lẳ Vọng là danh hiệu của Khương Thượng tự Tử-nha đời Châu Vũ-Vương (1135-1116 tr.t.l.) Sách nói về việc binh, gồm có : văn thao, vũ thao, long thao, hổ thao, báo thao, khuyển thao. (thao: phàm giấu kin ở trong không lộ ra ngoài điều gì gọi là thao).Và thượng, trung, hạ: ba phương sách hành binh tất thắng, tực tam lược
tôn sư: tiếng xưng tụng bậc thầy đáng tôn.
khí tượng : cái khí khái cụ-động của con người. ý-chí mạnh-mẽ phát ra thành hình.
tinh-thần: thần-sắc đẹp-đẽ, rạng-rợ.Linh-hồn.Gọi chung những cái thuộc về vô hình.
phong vân: gió mây.Do theo thành-ngữ xuất xứ ở kinh Dịch, lời văn-ngôn:Vân tùng long, phong tùng hổ:mây theo rồng, gió theo cọp.Chỉ về lúc phải thời đỏ vận. Bản của cụ Trương vĩnh Ký chép là:... hội long vân, tức hội mây rồng, cũng không ra ngoài nghĩa ấy.
lập thân: ráng lo cho nên thân.
lăm: dốc lòng lắm.
bắn nhạn ven mây: thành-ngữ chỉ về sự quyết tâm những chuyện khó-khăn.
báo bổ: vì đền ơn cho người mà lo làm việc ích cho người. đền-bù nhẳng lúc người vì mình mà cực nhọc.
hiển vang: rợ-ràng.
tai nàn: (do chữ nạn chuyển ra):nói chung về những họa hại về nước, lửa, trộm, cướp.
số-hệ: mệnh-vận định trước.
khoa tràng: trường thi.
hộ thân: che-chở thân-thể.
phong trần: gió bụi.Chốn phong-trần chỳ về cuộc đời.Tình-cảnh gian-khổ nay đây mai đó.
phù thần: bùa thần.Bùa rất linh.
khoa kỳ: kỳ thi
đức bạc: bạc:mỏng(đức). Theo văn-phạm tiếng Hán, nói là bạc đức. Chuyển ra mẹo tiếng Việt, chữ bạc lại cũng nhập-tịch Việt-nam, nên gọi là (đức) mỏng hoặc (đức) bạc.
tài sơ: sơ(tài):thưa(tài).
nao: do tiếng nào chuyển ra.
minh: sáng-tỏ.
đăng trình: lên đường.
Vạn lý trường đồ: đường dài vạn dặm.
hồ-nghi: tính con cáo hay nghi.Nghi nhiều.
Tiểu-sinh: con trẻ học trò nhỏ tuổi. Người hậu học. Người học-trò tự khiêm xưng mình.
nắng mưa: câu này ý nói chưa biết rồi ra việc thế nào.
tuổi hạc: con hạc sống rất lâu.Tuổi hạc là danh từ người ta dùng "lấy hên"cầu sống như con hạc vậy.
âm hao: tin-tực.
tường: hiểu rạ.
tiền đường: nhà trên.
nhân cơ tàng sự: nhân cơ trời dấu nhiều việc (mà chỉ dạy Vân-Tiên).
khôi-tinh: ngôi sao thự nhất trong đám sao Bắc-đẩu.Nguyên bản Trương vĩnh Ký chép:Khuê tinh.Cũng một nghĩa.Nhưng dùng chữ "khôi" mới đắc sách,vì có ý nói về sự đỗ đạt,chiếm khôi-nguyên.
tụ-vi: vì sao chính, tốt
hiển-vinh: có danh-giá rợ-ràng.
tiến-trình: bước đường trước mặt.Tương-lai.
bĩ cực thái lai: khổ hết sướng lại. Bĩ-Thái vốn là tên quẻ Dịch. Bỉ vốn cùng,Thái vốn thông. Vả, hết tuần cùng thì đến thông, cơ trời vận-chuyển đều-đặn.
keo sơn: hai vật dính-dấp.Nhà văn mượn đó dùng vào nghĩa bóng; việc chi bền-chặt.Chữ Hán, keo là giao, sơn là tất.Nên trong văn-chương có câu; một lời đã gắn tất giao. Vốn là nghĩa ấy.Thơ xưa có câu: Dĩ giao đầu tất trung, Thuỳ năng biệt-ly thụ ? Nghĩa là; lấy keo mà bỏ vào trong sơn, ai làm cho chia rẽ được đó nữa.
Vừa rạng chân trời: lúc hừng Đông.
học-đường: trường học
thiên các nhất phương: bơ-vơ trong một khoảng trời đất.
Tử Lộ: học-trò đức Khổng-tử. Có tiếng là hiếu. Thuở trẻ, đội gạo đường xa kiếm tiền nuôi mẹ. Đến lúc mẹ chết, ra làm quan, tiền-của chớn-chở, nhưng thời thường hay than;:"Không còn mẹ để lại được đội gạo nuôi mẹ như xưa".Ở câu này,mang đai Tư Lộ, ý tác-giả muốn nói tâm-trạng Vân-Tiên khi ấy nóng nảy thương cha nhớ mẹ muốn chấp cánh mà bay riết cho tới nhà, để khỏi nặng mình ràng buộc bởi thương cảm.
Nhan Uyên: học-trò đức Khổng-tử. Nổi tiếng hiền. Hằng ngày, Nhan ăn ở rất giản-dị.đức Khổng thường khen:"Hiền thay ngươi Nhan Hồi(Hồi là tên tộc của Nhan). Một giỏ cơm một bầu nước, ở nơi chốn ngạ hẻm hang cùng, thế mà vui".Ở câu này bầu Nhan Uyên tực là tác giả cho Vân Tiên học đòi Nhan Uyên sống thanh đạm,vui thú giẳ vẹn tính hiền-lương chân-chất.
cá nước gặp duyên: thành-ngữ chỉ về sự được như ý. Như cá gặp nước, thì duyên may sung-sướng biết bao.Do câu chữ Hán: Ngư thủy tương phùng. Dẫn điển :Lưu Bị nhà Hán thường nói: "Cô đắc Khổng Minh do ngư chi đắc thủy. Nghĩa làTa được Khổng Minh cũng ví như con cá được nước.
lân-gia: hàng xóm. Nhà ở gần đó.
tiểu-tử: gã trẻ tuổi.
Sơn-đài: cướp núi.
Khoan-thai: chậm-rãi êm-ái.
Lâu-la: tay sai của tướng cướp.
khôn đương: ngăn cản, nhận lấy.
thôn-hương: xóm làng vùng quê
nẳ-nhi: gái trẻ.Tiếng gọi chung đàn-bà con-gái còn trẻ.
dung-nhan: vẻ mặt.Câu này ý nói dung-nhan xem thấy bắt động lòng.
Hành hung: làm dữ.
Thục-nữ: người con gái dịu-dàng mà lại trinh-chính.
Thất-phu: người nhỏ-hèn. Người chẳng ra gì.
âu: do chữ ưu chuyển ra. Lo-sợ, buồn-rầu.
Lôi-đình: sấm sét. ý nói là nổi cơn tức-giận.
đình: dừng lại
Anh-hào: người có tài giỏi, sức mạnh. Anh là đẹp nhất.Hào là mạnh, khôn nhất
Bậu: Người lớn tuổi gọi mơn-trớn có ý trêu-cợt người trẻ.
Họa hổ bất thành: vẽ cọp chẳng nên hình.ý nói: toan làm chuyện phải, cao mà không xong thì cũng khổ với tiếng cười nhạo của người chung quanh, xuất xứ ở sách Hậu Hán thư. "Họa hổ bất thành phản loại cẩu". Nghĩa là: Vẽ hổ không nên lại giống chó, ý chê người không lượng biết sực mình làm càn.
Hung-đồ: bọn dữ-dằn.
Hồ-đồ: không rạ rạ sự lý
Tả đụt hữu xông: đánh tan bên trái, lướt tràn bên mặt.
Triệu Tử: Triệu Tử-long (tên là Vân). Tử-Long một trong năm viên tướng mạnh của Lưu Bị đời Tam-quốc đã nổi danh ở trận Đương-dương, một mình chống với muôn quân của Tào Tháo, cứu á-đẩu.
đương-dang: chính chữ thì Đương-dương, nơi Triệu Tử-long phá quân Tào. Viết là dang để cắn vào với câu dưới.
Vong:
Tiểu-thư: gái nhà quan.
Bất kỳ: chẳng có kỳ, thình-lình.
Khuê-môn: cửa buồng của con gái. Khuê-môn phận gái: phận gái vốn ở chốn buồng the.
Tỳ-tất: con đòi, đầy tớ gái.
Nghi-gia: nên nhà định bề nghi-gia: Lo cho yên bề vợ chồng, vì có vợ chồng tất phải lo việc cửa nhà, nên mượn thành-ngữ: "Nghi gia nghi thất": nên nhà nên cửa, để chỉ về việc định Đôi-bạn.
Bất bình: chẳng bằng, ý nói việc không dè mà có được, việc trái.
đăng-trình: lên đường
Lâm nguy: gặp nguy. Phải việc không lành.
Giải nguy: cởi bỏ cái nguy. Trút khỏi việc không lành.
Tiết: lóng, mắc, chỉ về sự ngay thẳng, giữ-gìn (Thân trúc dẫu khô nhưng thẳng lóng-thơ Trần danh án đời Lê-Mạc)
Quân-tử: danh từ dùng xưng tụng người học-trò chính-chắn.
Tiện thiếp: tiếng của người đàn bà con gái khiêm-nhượng tự xưng.Tiện:hèn, thiếp: đàn-bà chịu phận lẽ mọn. Tiện-thiếp: phận đàn-bà hèn.
Chút tôi: cái tôi bé bỏng. Tiếng tự khiêm nhượng.
Liễu yếu đào thơ: chỉ về người con gái thân-phận yếu-ớt.
Báo đức: đáp cái ân đức.
Thù công: trả công ơn
Kiến ngãi bất vi: chính là nghĩa, đọc trại ra là ngãi hoặc ngợi: thấy việc nghĩa không làm.
Phi anh-hùng: chẳng phải anh hùng.
Thỉ-chung: trước sau. Biết chữ thỉ-chung: ý nói biết phải; có trước có sau vẹn tròn.
Phút nghe: (trong giây) phút (mà được)nghe.
Thanh-thao: trong-trẻo.
thiền-quyên: con-gái đẹp-đẽ.
Tri-âm: Vật trao đưa để nhớ đến nhau.
Thin: thấy ưa nhìn. Do chữ "thấy ưa nhìn" chuyển âm theo lối thúc vần (variation phonetique) thành ra:"thấy (ưa) nhìn" lái lại là thìn. Thìn nết-na: nết-na thấy ưa nhìn.
lây-dây: lây ra và khiến cho ai chạm phải thì dây-vướng.
Ơn kia đã mấy: ơn kia nào đã được bao nhiêu đâu. Có nhiều bản chép: ơn kia đáng mấy; e không hay bằng nguyên-bản Trương vĩnh Ký
Ngàn vàng chẳng phai: ngàn vàng đỏ không thể làm phai được màu đỏ của lòng.
Trọng ngãi (nghĩa) khinh tài: nặng phần nghĩa mà rẻ-rúng tiền.
Nữ-nhi: gái trẻ.Tiếng gọi chung đàn bà con gái còn trẻ.
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.: câu này lời lẽ thật hay: vốn ( tôi phận đàn bà con gái) chưa biết (cái) lẽ (mà chàng đã nói (nên mới) có khi mích lòng (chàng) (làm vậy).
hầu: câu này: Nguyệt Nga lên tiếng xin vâng làm thơ hầu Vân Tiên.
Tám câu năm vần: tực là thơ bát cú thất ngôn đường-luật.
Văn-nhân: người đẹp đẽ, có văn chương.
ngạt-ngào: ý nói:lời lẽ sực-nực mùi thơm-tho
Tạ-nữ: con gái họ Tạ tực nàng Tạ đạo-Uẩn, văn hay thơ giỏi có tiếng. Vợ của Vương Ngưng Chi đời Tấn.
Từ-phi: tên là Từ-Huệ. Người đời đường, con gái Từ Hiếu Đức. Lên 8 tuổi đã biết làm thơ. Đến lớn văn-chương nức tiếng, được vua đường Thái-tông (627-649) triệu vào trong cung làm tài-nhân. Một lần, vua vời, nàng không đến, vua giận. Nàng dâng bài thơ rằng:
"Triều lai lâm kính-đài.
Trang bãi độc bồi-hồi.
Thiên kim mãi nhất tiếu.
Nhất triệu khỳ năng lai ?
Nghĩa:
buổi sớm đến chỗ đài gương; trang-điểm xong một mình bồi-hồi. Ngàn vàng mua một nụ cười; Một lần vời có thể lai ?
- Vua bèn tha tội.
Dũ xuất dũ kỳ: càng nói ra càng thấy lạ
Mai hòa vận điểu, điểu hòa vận mai: Mai, lan, cúc, trúc, hoặc :mai, điểu, tùng, lộc, vốn là nhẳng bực tứ bình được nhiều bậc văn-nhân ưa-thích, vì miêu-tả được đầy-đủ sự thanh cao. Ở đây,ý nói bài thơ của Nguyệt Nga và Vân Tiên họa lại rất xứng nhau.
Xúc cảnh hứng hoài: trông thấy cảnh, say-mê cảnh mà ôm tình hứng.
đường xa vòi vọi, dặm dài vơi vơi: ý nói (nhờ vậy) đường xa mút mắt vẫn thấy dặm dài như được ngắn lại.