phản hồi: trở về
4.- Nguyệt-Nga về Hà-Khê (câu 237 - câu 286)
Vân-Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt-Nga than thở: "Tình ôi là tình!
"Nghĩ mình mà ngán cho mình,
"Nỗi ơn chưa trả, nỗi tình lại vương.
241.- "Hữu tình hai chữ uyên-ương,
"Chuỗi sầu ai khéo vấn-vương vào lòng.
"Nguyện cùng nguyệt lão hỡi ông!
"Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
"Hữu tình chi mấy Ngưu Lang,
"Tấm lòng Chức nữ, vì chàng mà nghiêng.
"Thôi thôi em hỡi Kim-Liên!
"Đẩy xe cho chị qua miền Hà-Khê."
Trải quả dấu thỏ đàng dê,
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
251.- "Vái trời cho đặng vuông tròn,
"Trăm năm cho trọn lòng son với chàng."
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều-công xem thấy lòng càng sanh nghi.
Hỏi rằng: "Nào trẻ tùy-nhi,
"Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt-Nga thưa việc tiền-trình,
Kiều-công tương nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt-Nga dạ hãy ngùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt-sùi đòi cơn:
261.- "Lao-đao phận trẻ chi sờn,
"No nao trả đặng công ơn cho chàng."
Kiều-công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
"Khi nào cha rảnh việc quan,
"Cho quân qua đó mời chàng đến đây.
"Sao sao chẳng kịp thời chầy,
"Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
"Hậu đường con hãy tạm lui,
"Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già."
271.- Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt-Nga còn hãy xót-xa phận mình.
Dời chân ra chốn hoa đình,
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhân.
Than rằng: "Lưu thủy cao sơn,
"Ngày nào nghe đặng tiếng đàn tri âm.
"Chữ tình càng tưởng càng thâm,
"Muốn pha khó lợt, muốn dầm khôn phai.
"Vơi vơi đất rộng trời dài,
"Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền."
281.- Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Họa ra một bức tượng hình Vân-Tiên.
Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên,
"Chữ ơn để dạ, chữ duyên nhuốm sầu."
5.- Vân-Tiên đi thi (câu 287 - câu 308)
Chuyện nàng sau hãy còn lâu,
Chuyện chàng xin nối thứ đầu nói ra.
Vân-Tiên từ cách Nguyệt-Nga,
Giữa đường lại gặp người ra kinh-kỳ.
291.- Xa xem mặt mũi đen sì,
Mình cao sồ-sộ dị-kỳ rất hung.
Nhớ câu bình-thủy tương phùng,
Anh-hùng lại gặp anh-hùng một khi.
Chẳng hay danh tánh là chi?
Một mình mang gói ra đi việc gì?
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn-Minh tánh tự, Ô-mi quê nhà.
Vân-Tiên biết kẻ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
301.- Chữ rằng bằng hữu chi giao,
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây?
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn dần.
Kià nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chân một hồi.
Cùng nhau bày tỏ tên rồi,
Hai chàng từ-tạ đều lui ra đường.
6.- Vân-Tiên để Hớn-Minh đi trước, mình về thăm nhà đã (câu 309 - câu 330)
Hớn-Minh đi trước tựu trường,
Vân-Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
311.- Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
"Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
"Bấy lâu đèn sách gia công,
"Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân-Tiên quì lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ, cũng bằng người kim.
"Dám xin cha mẹ an tâm,
"Cho con trả nợ thanh-khâm cho rồi."
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi ngàn trùng.
321.- Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân-Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
"Cùng quan hưu trí ở miền Hàn-Giang.
"Con người là Võ-thể-Loan,
"Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà.
"Chữ rằng Hồ-Việt nhất gia,
"Con đi tới đó trao qua thư này.
"Con dầu bước đạng thang mây,
"Dưới chân đã sẵn một dây tơ-hồng.
|
|
Chú thích:
Uyên-ương: có người đọc là oan-ương. Một thứ chim, con đực là uyên, con cái là oan ương, ở từng cặp không khi nào rời nhau. Trong văn-chương mượn hai tiếng uyên-ương để nói về vợ chồng thương nhau.
Nguyệt Lão: tức nguyệt hạ lão nhân: ông lão ở dưới mặt trăng.Tục truyền là vị thần xem việc hôn nhân. Tích Vi Cố người đời Đường, đi kén vợ, một hôm về đêm gặp một ông lão già ngồi trước sân chùa, bên mình có để một túi đựng toàn chỉ hồng, tay mở quyển sách soi ra ánh trăng mà xem. Vi Cố hỏi thì nói: ấy là sách Hôn-thư là sổ những người phải lấy nhau. Chỉ đã buộc rồi, thì dù thân, thù, quí, tiện, thế nào rồi cũng phải hợp. Vi tọc mạch hỏi thăm về duyên nợ của mình, ông già dưới trăng cũng vui vẻ cho biết rằng đã xe dây cho Vi lấy đứa con nhà hàng rau. Sáng ngày Vi ra chợ, theo lời chỉ bảo của ông già dưới trăng, thấy người có duyên nợ với mình nghèo-nàn quá, Vi giận bèn mướn người giết chết đứa con gái ấy đi. Nhưng không giết được. Đến sau Vi cưới vợ té ra người vợ lại chính là người con gái mà Vi đã toan giết ấy.
Ngưu lang: Chàng Khiên Ngưu tức là chàng Ngưu (đọc chạnh ra Ngâu). Tục truyền rằng cứ đêm thất tịch (mồng 7 tháng 7) thì Chức Nữ (xem Chức Nữ) và Ngưu lang gặp nhau
Chức Nữ: người con gái dệt vải-tên một vì sao. Truyện xưa nói rằng sao Chức Nữ là thiên-tôn-nữ (cháu gái trời) gả cho Khiên Ngưu. Vì cả hai say đắm nhau đến quên bổn-phận: chàng chăn trâu nàng dệt vải, Ngọc-Hoàng mới giận đày họ xa nhau, cách một con sông Ngân, mỗi năm chỉ cho phép gặp nhau một đêm, mồng 7 tháng 7 do lũ quạ đen sói đầu bắc cầu cho hai người đến với nhau. Nay tục lệ mồng 7 tháng 7 là tích ấy.
Phủ đàng: dinh-thự của quan tri-phủ
Tùy-nhi: tuỳ: theo. Nhi: con. Bọn theo hầu Nguyệt Nga.
Tiền-trình: bước đường trước mặt.
no nao: do chữ nỏ chuyển ra. Không biết thở nào.
Hậu-đường: nhà sau
Tây-lầu: lầu ở phía tây.
Hoa-đình: viện trồng hoa.
Cố-nhân: người xưa.
Lưu-thủy cao-sơn: nước trôi núi cao. Lấy điển Bá Nha, Tử Kỳ. Quan đại-phu Bá Nha nhân một đêm trăng, lênh-đênh trên thuyền về quê, ngồi ôm đàn khảy.Tử Kỳ ngồi trên bờ lắng nghe, nức-nở khen.Bá Nha cho người mời xuống thuyền cùng nhau trò-truyện lấy làm ưng ý bèn kết làm đôi bạn. Trong khi thử tài nhau, Bá Nha ngồi ôm đàn nghĩ-ngợi, chí ở chốn nước biếc, Tử Kỳ gật đầu, nghe đàn rồi bảo rằng :"Vọi vọi chí đại-nhân ở nơi lưu-thuỷ". Bá Nha chẳng nói gì, lại để chí ở chốn non cao lên tiếng đàn, Tử Kỳ cười bảo :"Vọi vọi chí đại-nhân ở chốn cao-sơn."
Thâm: sâu
Hương-án: bàn đốt hương.
Làu làu: do chữ lau chuyển ra. Sạch như lau.
Sơn-xuyên: núi sông.
Kinh-kỳ: đất ở thủ-đô ở một nước
Dị-kỳ: khác lạ.
Bình-thủy tương-phùng: bèo nước gặp nhau. Thành-ngữ chỉ về sự gặp-gỡ nhau trong cảnh trôi nổi.
Anh-hùng: anh là vua loài hoa, hùng là vua loài thú. Anh-hùng là người tài-hạnh tót vời. Theo Văn-trung-sử Vương-Thông thì : tự tri giả anh : tự biết mình là anh. Tự thăng giả hùng : người tự biết mình là hùng.
Danh-tánh: tên, họ.
Tánh-tự: chữ tên.
Chính-tà: chính là ngay thẳng và tà là lệch vạy. Người ngay-thẳng và người không ngay-thẳng.
Dị-tướng: tướng-mạo khác lạ.
Bằng hữu chi giao: cái giao tình giữa anh em bạn với nhau.
Võ miếu: miếu thờ vị thần của con nhà võ .Có bản chép là miếu võ ( hoặc vũ: cho đền chùa thờ Thần Phật.
Từ-tạ: cáo-từ mà cảm-tạ.
Tựu trường: đến nhà trường. Ở đây là nơi thi.
Hồi hương: về làng.
Gia công: thêm công-phu vào mà làm. Đèn sách gia công ; lúc nào cũng đem hết sức để vào sự học, làm bạn với sách đèn
Tang-bồng: do thành-ngữ Tang-bồng hồ thỉ là cung bằng gỗ dâu, tên bàng cỏ bồng.- Ngày xưa tục Trung-hoa hễ đẻ con trai thì dùng cung tên bằng gỗ dâu và cỏ bồng bắn sáu phát lên trời xuống đất và ra bốn phương, tỏ ý người con trai sẽ có công việc ở trời đất bốn phương. Vì thế người ta dùng thành-ngữ "Tang-bồng hồ thỉ" để nói về sự vẫy vùng của người trai có chí-khí.
Kim: bây giờ. Nay. Đối với cổ là xưa. Ở câu này, chữ kim cũng đọc là câm để ăn vần với hai câu dưới.
An tâm: yên lòng.
Thanh-khâm: áo màu xanh . Ngày xưa học-trò trường công ở Trung-quốc mặc áo màu xanh, nên gọi học-trò là thanh-khâm. Trả nợ thanh-khâm : trả nợ học-trò. Nghĩa là có công ăn-học thì phải lo đem việc học được giúp đời.
Tiểu-đồng: đứa trẻ-con hầu-hạ.
Phong: đóng kín lại.
Lương-duyên: nhân-duyên tốt lành.
Hưu-trí: về già, nghỉ việc quan.
Hai bảy: 14 tuổi.
Hồ Việt nhất gia.: người Hồ người Việt ở một nhà. Thành-ngữ chỉ về:lạ thành quen, xa thành gần.
Thang mây: do chữ Hán là Vân-thê: nghĩa là cái thang để bước lên mây. Tức đường công-danh. Lên mây tức là lúc được thỏa ý-chí.
Tơ-hồng: do chữ xích-thằng ; tích Vi Cố đời Đường gặp một ông già dưới bóng trăng nói rằng : trong túi có sợi dây đỏ để buộc chân những cặp vợ chồng với nhau (đã dẫn ở trước).