Lục-Vân-Tiên
7.- Vân-Tiên ra đi thi. Ghé nhà Võ-công gặp bạn (câu 331 - câu 418)
331.- Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân-Tiên cùng gã tiểu-đồng dời chân.
Ra đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân qua hè,
Lại xem dăm liễu đường hoè,
Tiếng ong ngơ ngáo, tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn, non dầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim nói, dưới ao cá cười.
341.- Quận thành nhắm kiểng xem người,
Kiểng xinh như vẽ, người tươi như dồi.
Hàn-Giang phút đã tới nơi,
Vân-Tiên ra mắt một hồi trình thư.
Võ-công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền.
Liếc coi tướng mạo Vân-Tiên,
Khá khen họ Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách, vuông tròn mười phân.
351.- Những e kẻ Tấn, người Tần,
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai.
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Nầy dâu Nam-Giản, nọ trai Đông-sàng.
Công rằng: "Ngãi-tế mới sang,
"Muốn lo việc nước hãy toan việc nhà."
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
"Đại khoa dầu đặng, tiểu khoa lo gì."
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
"Sao không két bạn mà đi tựu trường?
361.- "Gần đây có một họ Vương,
"Tên là Tử-Trực văn-chương tót vời.
"Cha đà sai trẻ qua mời,
"Đặng con cùng gã thử chơi một bài.
"Thấp cao, cao thấp, biết tài,
"Vầy sau bạn trước cùng mai mới mầu."
Xảy đâu Tử-Trực tới hầu,
Võ-công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con!
"Thơ hay làm đặng, rượu ngon thưởng liền.
371.- "Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
"Lấy câu 'bình thủy hữu duyên' làm đề."
Song song hai gã giao kề,
Lực, Vương, hai họ đua nghề một khi.
Cho hay kỳ lại gặp kỳ,
Bạch-Hàm há dễ kém chi Như-Hoành.
Công rằng: "Đơn quế đôi nhành,
"Bảng vàng, thẻ bạc đã đành làm nên.
"Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
"Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
381.- "Thiệt trang lương đống đã đành,
"Khá khen hai họ tài lành hoà hai."
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
"Có đâu én hộc sánh vai một bầy.
"Tình cờ mà gặp nhau đây,
"Trực rằng xin nhượng Tiên rày làm anh.
"Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
"Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau."
Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân-Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
391.- Võ-công tở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể-Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chân trời,
"Tiểu-nhi trang điểm ra nơi lê-đình.
"Gọi là chút nghĩa tống tình,
"Phòng sau cho khỏi bất bình cùng nhau."
Bóng trăng vừa lộ cành dâu,
Văn-Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể-Loan đứng trước lê-đình liễm-dung.
401.- Thưa rằng: "Quân tử phó công,
"Xin thương bồ liễu chữ tòng ngây-thơ.
"Tấm lòng thương gió nhớ mưa,
"Đương xa ngàn dặm xin đưa một lời.
"Ngày nay thánh chúa trị đời,
"Nguyền cho linh-phụng gặp nơi ngô-đồng.
"Quản bao chút phận má hồng,
"Phòng khuya vò-võ, đợi trông khôn lường.
"Chàng dầu cung quế xuyên dương,
"Thiếp xin hai chữ tao-khương cho bằng.
411.- "Xin đừng tham đó bỏ đăng,
"Chơi lê quên lựu, chơi trăng quên đèn."
Tiên rằng: "Như lửa mới nhen,
"Dễ trong một bếp mà nhen mấy lò.
"May duyên rủi nợ dễ phò,
"Chớ nghi Ngô-Khởi, hãy lo Mãi-Thần."
Thể-Loan vội vã lui chân,
Vân-Tiên từ biệt trông chừng Trường-an.
8.- Vân-Tiên từ-biệt Võ-công, Thể-Loan. Lên đường ra kinh thi, gặp:Vương-Tử-Trực, Trịnh-Hâm, Bùi-Kiệm (câu 419 - câu 552)
Xa xa vừa mấy dặm đường,
Gặp Vương-tử-Trực vầy đoàn đều đi.
421.- Trải qua thủy tú, sơn kỳ,
Phỉ lòng cá nhảy, gặp thì rồng bay.
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên-tử chơi rày Bồng-Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài,
Năm ba chén rượu, một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa võ một giờ nhảy qua.
Cùng nhau bàn bạc gần xa,
Chữ tài chữ mệnh xưa hòa ghét nhau.
431.- Trực rằng: "Rồng xuống vực xâu,
"Mặc dầu dỡn sóng mặc dầu chơi mây."
Tiên rằng: "Hồng-hộc đều bay,
"E khi mỏi cánh lạc bầy về sau."
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi.
Chênh chênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kỳ.
Phút đâu gặp bạn đi thi,
Đều bày tên họ môt khi mới tường.
441.- Một người ở quận Phan-Dương,
Tên Hâm, họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở quận Dương-xuân,
Họ Bùi, tên Kiệm tác chừng đôi mươi.
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả-nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
"Nay đà thấy mặt phỉ nguyền ước ao."
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
"Làm thơ mới biết bậc nào tài năng."
451.- Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm-sửa đồ ăn cho bề.
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
"Khô lân chả phụng bộn-bề thiếu đâu.
"Kià là thuốc lá ướp ngâu,
"Trà ve tuyết điểm, rượu bầu cúc hương.
"Để khi đãi khách giầu sang,
"Đãi người văn-vật, đãi trang anh hùng."
Bĩ bàng trà rượu đã xong,
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ,
461.- Kiệm, Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên, Trực, một giờ vừa xong.
Kiệm, Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên, Trực viết tùng cổ thi.
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ.
"Cười người Tôn-Tẫn không lừa,
"Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng-Quyên.
471.- Trực rằng: "Lời nói hữu duyên,
"Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?"
Quán rằng: "Kinh-sử đã từng,
"Coi rồi lại khiến lòng hằng xót-xa.
"Hỏi thời ta phải nói ra,
"Vì chưng hay ghét cũng là hay thương."
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
"Chẳng hay thương ghét, ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào,
"Ghét cay, ghét đắng, ghét vào tới tâm.
481.- "Ghét đời Kiệt, Trụ mê dâm,
"Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
"Ghét đời U, Lệ đa đoan,
"Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
"Ghét đời Ngũ-bá phân vân,
"Chuộng bề dối trá, làm dân nhọc nhằn.
"Ghét đời Thúc-quí phân băng,
"Sớm đầu tối đánh, lằng nhằng rối dân.
"Thương là thương đức thánh nhân,
"Khi nơi Tống, Vệ, lúc Trần, lúc Khuôn.
491.- "Thương thầy Nhan-tử dở dang,
"Ba-mươi-mốt tuổi, tách đàng công-danh.
"Thương ông Gia-Cát tài lành,
Gặp cơn Hán mạt, đã đành phôi pha.
"Thương thầy Đồng-tử cao xa,
"Chí thời có chí, ngôi mà không ngôi.
"Thương người Nguyên-Lượng bùi-ngùi,
"Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
"Thương ông Hàn-Dũ chẳng may,
"Sớm dâng lời biểu tối đày đi xa.
501.- "Thương thầy Liêm-Lạc đã ra,
"Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
"Xem qua kinh sử mấy lần,
"Nửa phần lại ghét, nửa phần lại thương."
Trực rằng: "Chùa rách phật vàng,
"Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân.
"Thương dân sao chẳng lập thân,
"Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu, Thuấn thuở xưa,
"Khó ngăn Sào-Phủ, khôn ngừa Hứa-Do.
511.- "Di, Tề chẳng khứng giúp Châu,
"Môt mình một núi, ai hầu chi ai.
"Ông Y, ông Phó ôm tài,
"Kẻ cày, người cuốc đoái-hoài chi đâu?
"Thái công xưa một cần câu,
"Sớm mai sông Vị, mặc dầu vui chơi.
"Nghiêm-Lăng đã mấy đua bơi,
"Cày mây, cần nguyệt tả-tơi áo cầu.
Trần-Đoàn chẳng chút lo âu,
"Gió trăng môt túi công hầu chiêm-bao.
521.- "Người nay có khác xưa nào?
"Muốn ra ai cấm, muốn vào ai ngăn."
Kiệm rằng: "Lão quán nói nhăng,
"Dầu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
"Gối rơm theo phận gối rơm,
"Có đâu ở thấp mà chồm lên cao."
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
"ếch nằm đáy giếng thấy bao nhiêu trời.
"Sông trong cá lội thảnh thơi,
"Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
531.- "Uổng thay đàn gảy tai trâu,
"Nước xao đầu vịt, nghĩ lâu nực cưòi."
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
"Đây đà nhớ đặng bảy người Trước-lâm.
"Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
"Khi cờ, khi rượu, khi cầm, khi thi.
"Công danh phú-quí màng chi,
"Cho bằng thong thả mặc khi vui lòng.
"Rừng nho biển thánh mênh mông,
"Dễ ai lặn lội cho cùng vậy vay."
541.- Quán rằng: "Đó biết lòng đây,
"Lời kia đã cạn, rượu nầy thưởng cho."
Kiệm, Hâm, là đứa so-đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa nầy Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng, người thấp đầy đường,
Lao-xao đoàn bảy, chàng-ràng lũ ba.
551.- Vân-Tiên vừa bưóc chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà đưa thư.
|
|
Chú thích:
Song thân: hai đấng thân, tức cha và mẹ.
Kiểng: do chữ cảnh . Cũng như: vi thành biến ra vi thiềng, vi cánh biến ra vi kiếng
Cầm-sắt: đàn cầm và đàn sắt. Duyên cầm-sắt là duyên vợ chồng hòa-hiệp, như đàn sắt đàn cầm hòa nhau.
Tướng-mạo : vẻ mặt dáng-dấp.
Phân: phần
Cốt cách: kiểu-dáng con người.
Tấn Tần: hai nước đời Xuân-thu ở Trung-quốc, nhà vua hai nước ấy kết hôn cùng nhau đời đời.
Ngẫu: đôi lứa
Giai: tốt-đẹp. Chữ ngẫu dăng gần chữ giai : ý nói đôi lứa tốt đẹp.
Nam-giản: người đi làm dâu. Lấy điển Kinh Thi có câu :"Vu dĩ thể tần,nam giảng chi tân, Nghĩa : hái rau tần nơi khe núi phía nam. Do đó dùng câu nam-giản, chỉ về sự chịu thương chịu khó của người con gái về làm dâu đi hái rau bắt ốc đơm quảy tiền-nhân bên chồng.
Đông-sàng: giường phía đông. Lấy điển :đời Tấn họ Tạ sai người sang nhà họ Vương để kén rể cho con gái mình là Tạ đạo Uẩn. Con em nhà họ Vương có nhiều người đẹp-đẽ hay giỏi, nghe được tin họ Tạ sai người đến, các anh rủ nhau làm ra bộ nghiêm-chỉnh, duy có Vương-Hựu Quân cứ nằm ưỡn bụng trên giường phía đông mà ăn bánh, làm như cách không nghe đến. Tạ-công khen rằng: thằng ấy là thằng rể tốt lắm. Do đó người ta gọi chàng rể là đông sàng.
Ngãi tế: con rể có nghĩa.
Nhạc-gia: nhà ông nhạc, tức nhà cha mẹ vợ.
[Back to the top]
Đại-khoa: Đại đăng khoa. Những người đậu khoa thi Hội, thi Đình.
Tiểu-khoa: tiểu đăng khoa. Người mình hay nói; thi đậu là đại đăng khoa, cưới vợ là tiểu đăng khoa. Ý rằng cưới vợ cũng là một việc mừng như thi đỗ.
Trước (trúc): tre. Người ta sánh trúc như quân-tử vì thân cao thẳng.
Mai: cây mai. Ví với người đẹp đẽ trinh-chính. Vì mai là thứ cây trổ bông trước nhất trong tiết dông lạnh, có vẻ cao nhã khảng-khái. Trúc và mai là hai thứ cây đến mùa đông đều cùng xanh tốt. Tranh vẽ của người Tàu thường vẽ cây trúc với cây mai luôn. Có chỗ cho cây "mai" là cây tre lớn để đi cặp với cây trúc là cây tre nhỏ. Sách "Lưỡng bạn thu vũ tuỳ bút" lại chép : có một chàng trai và cô gái đứng trò chuyện với nhau trên bờ một đầm kia ở huyện Long-môn, tỉnh Quảng-đông. Hai người cầm hai cây thanh trúc mà nói rằng. " hai thanh trúc này mà khép lại với nhau thì chúng ta sẽ lấy nhau làm vợ chồng". May sao hai thanh trúc cùng hiệp lại làm một như lời nguyện của đôi trai gái. Sau thiên-hạ vùng đó gọi đầm ấy là "Đỗ phụ đầm" nghĩa là đầm đánh cá được vợ. Còn trúc mọc trên đầm ấy gọi là mai trúc.
Bình thủy hữu duyên: bèo nước có duyên .
Kỳ: lạ thường
Bạch-Hàm, Nhu-Hoành: Hai nhân-vật trong tiểu-thuyết "Bình-sơn Lãng-Yến"tài-hoa nổi tiếng.
Đơn quế: tương truyền trên cung trăng có cây quế. Ý nói: cao cả, giỏi-dắn.
Lương-đống: giường cột. Người có tài-năng giúp việc cho nước nhà.
Hộc: thứ chim giống như con nhạn, cũng gọi là thiên nga.
Đệ-huynh: anh em
Thượng trình: lên đường.
Trăng đã đứng đầu: 12 giờ khuya. [Back to the top]
Thư-lầu: lầu chứa sách vở.
Hậu-đàng (đường): nhà sau.
Tiểu-nhi: con trẻ
Trang-điểm: trau-dồi, tô-vẽ.
Lê-đình: sân lê
Tống tình : đưa tình
Bất bình: không bằng lòng.
Xuất hành : ra đi.
Bình-minh: lúc trời mới sáng.
Liễm-dung: nghiêm-chỉnh hình-dung để bày tỏ lòng kính.
Phó công: đi đến nơi công cộng.
Bồ-liễu: cây thùy-dương. Thể-chất yếu-ớt. Bồ là cỏ bồ ta gọi là cói, liễu là cây liễu. Cỏ bồ yếu ớt, cây liễu mềm mỏng, vì thế ta thường ví con gái mảnh dẻ như bồ liễu. Cố Duyệt cùng tuổi với Giản Văn mà đầu lại bạc trước. Giản Văn hỏi:"Tại sao bác lại chóng bạc đầu như thế ?" Cố đáp:"Bồ liễu chi tư vọng thu nhi lạc; Tùng bách chi chất, kinh sương độc mậu". Nghĩa là cây bồ cây liễu là thứ cây yếu ớt, hrễ trông thấy mùa thu đến thì đã rụng và héo rồi. Tính-chất của cây tùng, trải sương tuyết vẫn riêng sum-sê. [Back to the top]
Tòng (tùng ): vâng, theo.
Thánh-chúa: chúa thánh.
Linh-phụng: chim phụng linh.
Ngô-đồng: cây ngô-đồng hình-dáng đẹp-đẽ cao-lớn. Tục truyền chim linh-phụng gặp cây ngô-đồng mới chịu đậu.
Cung quế: Do chữ quế cung tức cung trăng .Vì tục truyền trên cung trăng có cây quế. Ý nóí : được nơi đẹp-đẽ. Xưa Hán Vũ-đế (140-87tr.t.l.)có làm một cái cung gọi là quế cung cho nàng Trương Lệ Hoa ở. Cửa tròn như mặt trăng, lộng kiếng. Sau sân dựng một bức tường vôi, tô phấn trắng, giữa sân trồng một cây quế, có ý xây dựng theo như lời tục truyền trên cung trăng.
Xuyên dương: suốt qua cây dương. Lấy điển: Dưỡng do Cơ người nước Sở đời Chiến-quốc, làm tùy tướng quan lệnh doãn Nhạc Bá đời Sở Trang-vương, có tài bắn hay. Đứng xa cây dương liễu một trăm bước để bắn lá cây dương mà Dưỡng bắn phát nào trúng phát nấy. Ý nói: mưu việc đều được cả. Do đó có thành ngữ : bách bộ xuyên dương: trăm bước bắn suốt dương liễu. Câu:"Chàng dầu cung quế xuyên dương" có nghĩa là: dầu chàng có lấy được ai khác đẹp. (vì tài học của chàng ắt thi đỗ cao, có thiếu gì nơi gấm-ghé).
Tao-khương: tấm cám.Ý nói: vợ chồng lấy nhau từ khi nghèo -hèn, dầu đến khi giàu sang không nỡ bỏ nhau.Lấy điển:người đời Hán là Tống Hoằng, nhân thấy vua có ý muốn Tống bỏ vợ để gả người chị gái hóa là Hồ Dương công-chúa cho, Tống nói : tao-khang chi thê bất cả hạ đường. Nghĩa: vợ chồng hồi tấm mẳn có nhau, chẳng khá bỏ nhau. Hồ Dương ngồi núp trong màn nghe vậy thì biết việc không xong rồi, lấy làm hổ thẹn nhưng vẫn có lòng kính trọng Tống Hoàng là người có tình nghĩa.
Ngô-Khởi: viên tướng giỏi ở nước Vệ, đời Đông Chu. Lúc trẻ, từ-giã mẹ đi tìm thầy mà học, thề trước mặt mẹ rằng : chừng nào được công-danh mới trở về thăm. Đến cầu học với Tăng Sâm là học trò đức Không-tử. Được ít lâu, Ngô nghe tin mẹ chết mà không tỏ vẻ thương-nhớ gì cả. Thầy học chê là người bất hiếu bất nghĩa, bèn đuổi đi. Ngô bỏ đi sang nước Tề. Uốn ba tấc lưỡi, Ngô được vua Tề gả công chúa cho. Nhưng sau đó, Ngô lại bỏ Tề, dắt vợ sang ở bên Lỗ. Chừng Lỗ muốn đánh Tề, Tề-tướng nước Lỗ là Công-nghi Hựu tiến cử Ngô với vua Lỗ. Lỗ-hầu sợ vợ Ngô là người nước Tề e Ngô không thiệt lòng. Ngô biết ý bèn về giết vợ đem dâng đầu cho Lỗ-hầu, rồi lãnh binh đi phạt Tề, có công được Lỗ Mục-công phong tước trọng hậu. Nhưng về sau nước Lỗ cũng không dám dùng Ngô vì xét thấy là người tàn nhẫn, vô tình. Ngô lại bỏ Lỗ qua đầu vua Diệu-vương nước Sở. Rốt lại Ngô chết vì nước Sở có loạn.
Mãi-thần: Chu Mãi-Thần người đời Hán thuở nghèo khó đi đốn củi đổi gạo mà ăn. Nhưng tính chăm học, hay treo sách trên đầu gióng, vừa gánh củi vừa học, Vợ thường hăm để bỏ, Mãi-Thần xin vợ đừng buồn, thế nào về sau cũng hiển-đạt. Vợ không nghe, bỏ đi lấy chồng khác. Sau, Mãi-Thần nên quan cao lộc cả, vợ xin về ở lại. Mãi -Thần đang cầm chén nước bèn đổ xuống đất mà bảo : hốt lại cho đầy thì xin vâng. Vợ xấu-hổ tự-vận chết.
Từ-biệt : cáo-từ để đi.
Thủy-tú sơn-kỳ: sông đẹp núi lạ. [Back to the top]
Cá nhảy rồng bay: cá nhảy qua cửa Võ thì hóa rồng (xem chú-thích "cửa Võ" ở dưới).Rồng bay thì mưa thuận gió hòa.Cá nhảy rồng bay là thành ngữ chỉ về sự mong-ước được thỏa.
Tiên-tử: người tiên.Người thanh-cao đạo-đức.
Bồng lai : chỗ tiên ở. Theo thần-thoại, Bồng lai, Phương-trượng, Doanh-Châu là tên ba hòn núi của tiên ở trong bể Bột.
Tình hoài: Mối tình ở trong lòng.
Võ-môn: Một khúc núi ở thượng-du sông Trường-giang bên Tàu, tỉnh Tứ-xuyên. Ở dưới chân núi có vực sâu. Tương truyền đến mùa thu nước lụt, cá đua nhau nhảy qua. Con nào nhảy khỏi thì hóa rồng.-Nước ta có huyện Hương-khê, tỉnh Hà-tĩnh cũng có một vực như thế.
Kinh-địa: Dất Kinh-đô. Thủ-phủ một nước.
Phút đâu gặp bạn đi thi: Nguyên bản của cụ Trương vĩnh Ký...gặp bạn cố-tri.
Phan-dương: hoặc đọc là Bà-dương.
Bề: Do chữ bế-hệ chuyển ra. Nghĩa là đóng cửa nằm nhà cũng chẳng thiếu thốn gì.
Tuyết điểm: Lấm-tấm màu tuyết. Ý nói trà thơm trong sạch.
Cúc hương: hương của hoa cúc.Rượu cúc rất quý. Lại sách "Phong tục thông" đời Hán có chép : truyền rằng ở huyện Lịch, tức huyện Nội-hương, tỉnh Hà-nam bên Tàu, có núi Cam-cúc, trên núi có thứ cỏ cúc rất tốt, nước khe núi chảy xuống ngon ngọt, uống được nước đó thì được sống lâu.
Văn-vật: những sản-vật của văn-hóa, như lễ-nhạc, chế-độ.Người văn-vật : người có văn-vẻ, học-thức. [Back to the top]
Bĩ (bàng ): do chữ Bị là đầy-đủ chuyển ra Việt-hóa.Bàng là tiếng đệm, tự nó không có nghĩa gì. Bĩ-bàng : đầy-đủ
Phút: mau lẹ. chợt.
Tùng: theo
Cổ thi: thơ xưa.
Bất tài: chẳng có tài gì.
Đồ thơ (thi): bôi lọ thơ.
Tôn-Tẫn, Bàng-Quyên: là hai nhân-vật đời Xuân-thu. Tôn, Bàng kết nghĩa, nhưng về sau Bàng mưu hại Tôn. Trước kia thầy Tôn là Vương-Thuyền vẫn có nói cho Tôn biết nên ngăn-ngừa họ Bàng, mà Tôn vẫn thản-nhiên, đến nỗi còn bị hại về tay Bàng, vướng cái họa chặt cụt mấy ngón chân. Hai câu này ý nói : sợ Vân Tiên kết bạn với kẻ chẳng lành, e như Tôn, Bàng chuyện cũ.
Hữu duyên: có duyên.
Kinh-sử: kinh-điển và lịch-sử,
Tuyền (toàn): Trọn-vẹn.Tóm quát cả.
Hằng: có bản chép hừng. Ở câu này, chữ hằng trong bản Trương vĩnh Ký e kém hơn chữ hừng chăng ? Hằng là thường. Hừng là hừng lên, chữ nào cũng hay, nhưng hừng nghe mạnh hơn.
Kiệt, Trụ: vua Kiệt (1818-1767) đời Hạ, Trụ (1154-1123) đời Thương là hai vị vua sau rốt hai đời ấy, vì bạo ngược mà mất ngôi. Đời sau người ta thường dùng chuyên danh từ Kiệt-Trụ để chỉ vua hung-bạo.
U, Lệ: hai vua nhà Chu làm rối việc chính.
Đa đoan: nhiều mối lôi thôi.
Ngũ-bá: Năm đời bá trong thời Chiến_quốc : Tề Hoàn-công, Tống Tương-công, Tấn Văn-công, Tần Mục-công và Sở Trang-công.
Phân vân: nhiều người mà lộn-xộn bối-rối,
Dối-trá: lừa-phỉnh, gạt-gẫm.
Thúc-quí: cuối nhà Đường, thiên-hạ nhiễu-lọan năm họ mạnh lần lượt tranh hoành. Ấy là đời Ngũ-đại hay Ngũ-quí : Hậu Lương, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Hán, Hậu Chu. Thường gay rối, cậy mạnh bè đánh nhau, khổ dân.
Phân băng: chia ra để mà đổ-nát hư-hỏng cả.
Thương đức Thánh-nhân: đây là nói Đức Khổng-tử trong lúc chu du thiên-hạ, trăm-phần khổ-sở vì dân vì đạo. [Back to the top]
Nhan-tử: tên là Hồi. Học-trò Khổng -tử. Nổi tiếng là hiền, được Khổng-tử khen
Công-danh: có công-nghiệp và có danh-dự.
Gia-Cát: hoặc đọc là Chư-cát tức Gia-Cát Lượng hiệu Khổng-Minh đời Tam-quốc hết sức khuông-phù nhà Hán cho thành nghiệp cả mà rốt cuộc vẫ phải chịu thua cơ trời : cõi nước chia ba.
Hán mạt: rốt đời nhà Hán.
Đổng-tử: Đổng-Trọng Thư một bậc đại nho. Người quận Quản xuyên. Chuyên trị kinh Xuân-thu. Có dạy thái-tử và có dâng cho vua Hán Vũ-đế (140-97 tr.t.l.) ba bộ sách kêu là Thiên-nhân tam-sách. Vua khen hay mà không dùng, chỉ cho ra làm quan đất Giang-đô mà thôi.
Đào Tiềm: tự là Uyên-Minh, hiệu Nguyên-Lương, người đời Tấn, làm tri huyện ở Bành-trạch (nên cũng gọi là Đào-lệnh, hoặc Đào Bành-trạch) mới có 80 ngày, nước Tấn bị Tống lấy. Lệnh truyền tới huyện bảo phải mặc áo gài đãi ra mà rước. Đào cho mình làm tôi nhà Tấn thì không lý lại đi rước kẻ làm tôi nhà Tống. Bèn treo ấn bỏ đi. Người này tức là tác-giả bài "Qui khứ lai từ" và là nhân-vật từng nổi tiếng : không vì năm đấu gạo mà uốn lưng vậy.
Hàn-Dũ: học-giả đời Đường, nghiên-cứu lục-kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân-thu) rất tinh, văn-chương tự thành một phái, rất phản-đối Phật-giáo. Cũng vì thế mà khi dâng sớ bài Phật, vua không vừa ý, sớm dâng thì chiều có chiếu vua dạy bắt đi đày. Nên có câu:Nhất phong triêu tấn cửu-trùng thiên. Tịch biến Triều-dương lộ bát thiên.
Giáo dân: dạy-dỗ dân-chúng.
Chùa rách phật vàng: thành ngữ chỉ về sự nhân-tài sinh trong cửa nhà nghèo.
Ẩn-tàng : dấu-diếm.
Kinh-luân: việc kéo tơ, lấy từng mối tơ mà chia ra gọi là kinh, so những sợi tơ một thứ mà họp lại là luân. Do đó, lấy nghĩa bóng : phàm sửa-sang sắp đặt về chính-trị đều gọi là kinh-luân.
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa: ý nói : có tài, có lòng thương dân sao chẳng ra lập thân, để khi dân khổ (nắng hạ) đặng cứu (làm mưa). [Back to the top]
Sào-Phủ, Hứa-Do: Hai cao-sĩ đời Nghiêu, Thuấn. Vua Nghiêu nghe tiếng Do hiền, xin nhường ngôi cho, nhưng Do không nhận. Đến sau vua Thuấn lại nói chuyện nhường ngôi, bèn bỏ đi, xuống một con sông gần đó để rửa tai, có ý trút bỏ điều danh-lợi vừa nghe. Xảy gặp Sào-Phủ, Phủ hỏi: Do đi đâu mà lật-đật. Do thuật chuyện, Phủ đang dẫn trâu xuống sông cho uống nước bèn dắt trâu đi mà rằng: "uống nước con sông này, e bẩn miệng trâu của tôi đi."
Di,Tề: Bá Di,Thúc Tề là hai người con vua Cô-trúc cuối đời ân. Cha mất, anh em nhường ngôi lẫn nhau, rồi đều bỏ ngôi cùng đi cả. Đến sau, khi Võ-Vương phạt Trụ, anh em Di Tề đến can ngăn trước đầu ngựa. SauVõ Vương được nước, hai anh em không thèm ăn gạo nhà Chu, bỏ vào núi Thú-dương, ở ẩn ăn rau. Đến sau có người lại chê rằng: "Không ăn thóc nhà Chu mà lại ăn rau nhà Chu để mà sống; vậy chớ ngọn rau tấc đất không phải của nhà Chu là gì ?".Bá Di,Thúc-Tề nghe được lời ấy bèn chịu đói mà chết.
Y, Phó: Y Doãn: một vị khai-quốc công-thần nhàThương ở Trung-quốc. Phó Duyệt: một nhà chính-trị có tài ngang với Y Doãn. Có tên khác nữa là Phó Nham. Sách Thượng-thư chép :đời Thương, vua Cao-tông Võ-định (1324-1266tr.t.l.), Phó Duyệt ở ẩn cày ruộng ở đất Bản-trúc. VuaCao-tông nằm chiêm-bao thấy trời cho một tướng hiền giúp nước, mới khiến thợ vẽ hình, theo đồ hình mà dọ tìm thì được Phó Duyệt.
Thái-công: tên Khương Thượng tự Tử-nha hiệu Lữ-Vọng (hay Lã).Thường ngày ngồi câu nơi sông vị. Vua nhà Chu nghe tiếng Lữ là bậc cao-hiền, đem xe đến rước, phong tước trọng hậu đến xưng tụng là Thái-công để tỏ lòng kính-trọng. Vì ngày xưa thường gọi cha là thái-công, có khi cũng xưng tổ-phụ là thái-công, xưng tằng-tổ là thái-công. Có làm bộ sách về binh-bị nổi tiếng.
Sông Vị: một con sông ở tỉnh Thiểm-tây.
Nghiêm-Lăng: Cao-sĩ đời Hán. Bạn của Lưu-Tú. Giúp Lưu-Tú diệt được Vương-Mãng mà trung hưng nghiệp Hán. Khi Tú lên ngôi xưng là Quang-Vũ-đế, có sai người đi rước Nghiêm nhiều lần. Nghiêm đều từ chối. Bấy giờ Nghiêm về ở núi Phú-xuân, mặc áo tơi, sớm cày tối câu. Sau, Quang-Vũ khẩn-thiết yêu-cầu cho gặp mặt Nghiêm một đêm thôi để thỏa lòng cùng nhau trò-chuyện, chớ không dám nài ép phong quan. Nghiêm nhận lời .Và chỉ nhận một ngày rồi đi. Đêm ấy cùng vua Quang-Vũ ngủ chung giường. Nghiêm gác chân ngang bụng vua. Nhà vua vẫn vui-cười.
Áo cầu: áo bằng da.
Trần Đoàn: hiệu Hi-di. Một vị đại tiên. Người đời Tống, tài cao ở ẩn. Gặp thời loạn, ngủ luôn ba năm ở núi Hạ-sơn. Đến khi dậy, cười mừng cho thiên-hạ có thái-bình. [Back to the top]
Ếch nằm đáy giếng: thành-ngữ:không thấy được gì hết.
Đàn gảy tai trâu: trâu không biết nghe đàn, thàng-ngữ: nói gì với người ngu cũng là thừa.
Nước xao đầu vịt: đem bao nhiêu nước mà xao động trước đầu vịt, rốt cuộc cũng như không.Thành ngữ: làm thế nào kẻ khờ cũng không biết sợ.
Bảy người trước-lâm(trúc): Trúc-lâm thất hiền: Bảy người người học-giả đời Tấn là: Kê-Khang, Nguyễn-Tịch, Sơn-Đào, Hương-Tú, Lưu-linh. Nguyễn-Hàm, Vương-Nhung, cùng nhau đi chơi ở Trước-lâm (rừng tre), đời mới xưng danh-hiệu ấy.
Đồng tâm: cùng một lòng.
Công-danh phú-quí: có công-nghiệp, có danh-dự,được giàu được sang.
Rừng nhu (nho): do chữ Nho-lâm. Ý nói Đạo nho thạnh-mậu.
Biển thánh: ý nói: thánh-học rộng sâu như biển không mấy người thấu đến. Rừng nhu biển thánh: thành ngữ chỉ về việc học phải khổ công lắm mới được.
Chàng-ràng: do chữ "Chẳng thành hàng" thúc vần lại, biến ra "Chàng". Còn ràng : rõ-ràng. Ghép lại thành tiếng đôi. Chàng-ràng : bày hàng trước mắt..