Nhà sư và nhà triết-học
Từ sự tìm-tòi khoa-học tới sự tìm kiếm tâm-linhJean-Francois (J-F): -
Ba tưởng cần phải nhấn mạnh ở điểm, cả hai chúng ta đều không có ý nghĩ làm quyển sách này. Những nhà xuất-bản, họ biết
về cuộc hành-trình tôn-giáo của con và liên lạc gia-đình của hai chúng
ta, đã gợi ý rằng một cuộc đối-thoại giữa hai chúng ta là một điều
thú-vị. Ba nhấn mạnh là khởi đầu:
a/- Con là một sinh-viên xuất-sắc về Sinh-vật học;
Cuộc đàm luận của chúng ta là về một người có học-vấn như con,
sau khi đã có một sự giáo-dục khoa-học Tây-phương ở mức độ
rất cao, đã sau đó quay qua, hay cùng thời về một nền Triết-học,
hay một tôn-giáo Đông-phương có tên là Phật-giáo. Con đã quay qua
Phật-giáo không phải để tìm kiếm một sự bổ-túc, hay phụ giúp
cho đời sống tinh-thần của một nếp sống theo những tiêu-chuẩn
Tây-phương; nhưng là một sự từ bỏ hoàn toàn để theo đuổi việc
tu-học đạo Phật.. Vậy câu hỏi đầu tiên là: Khi nào, và tại sao
ý-định đó nảy sinh ra?
b/- Con là một trong những học trò của giáo-sư Francois Jacob;
c/- Con đã làm việc nhiều năm ở viện Pasteur;
d/- Con đã trình luận án tiến-sĩ về Sinh-vật học tại Phân-khoa
Khoa-học của trường đại-học Ba-Lê trước một ban giám-khảo gồm
có giáo-sư Francois Jacob và những vị nổi tiếng khác.
đ/- Luận án ấy chứng tỏ con có học lực của một người có văn-bằng
Tiến-sĩ khoa-học.
Mathieu (M): - Bước đường nghề-nghiệp
khoa-học mà con đã theo là kết-quả của một sự hăng-say về sự khám-phá.
Những điều con làm sau đó không phải là sự chối bỏ sự tìm
tòi say mê khoa-học, nhưng là kết-quả của sự nhận-thức rằng
khoa-học không thể giải-đảp cho câu hỏi căn-bản về sự
hiện-hữu. Nói tóm tắt, khoa-học, dù rất thích thú, không đủ để
trả lời cho con ý-nghĩa về cuộc đời của con. Con đã đi tới
quyết-định coi sự tìm-tòi khoa-học, như con đã sống, là một sự
sao lãng mất thì giờ trong các chi-tiết, và con không muốn mất cả
cuộc đời cho việc ấy.
Song song vào đó, sự thay đổi xuất phát từ sự chú tâm càng
ngày càng gia tăng về cuộc sống tinh-thần, "khoa suy-luận quán
tưởng" (science contemplative). Khởi đầu, sự quan-tâm ấy chưa
hiện rõ trong tâm trí con, vì con được hưởng một nền giáo-dục phi
tôn-giáo, và con không theo Thiên-chúa-giáo. Tuy vậy, về bề ngoài,
con cảm thấy một sự sợ hãi kính cẩn khi con bước vào
thánh-đường, hay gặp một người tu-hành. Nhưng con hoàn-toàn mù
tịt về tôn-giáo.
Con còn nhớ, có đọc những sách về những tập-tục tinh-thần, trong
thuở niên thiếu. Những sách về Thiên-chúa giáo, Ấn-độ giáo,
Hồi-giáo, nhưng một cách ngược đời là rất ít về Phật-giáo, vì
vào thập niên 60, có rất ít sách dịch trung-thực về Phật-giáo.
Vài quyển sách, và sách dịch có được lúc đó trình-bày một
cách cẩu thả, theo sự nhận định về Phật-giáo hồi thế-kỷ
trước: một triết lý về trống không, có nhiều sắc thái xa lánh
thế-giới. Nhờ vào chú Jacques Yves Le Toumelin, chuyên về ngành
hàng-hải của con, con khám-phá được những trước tác của nhà
siêu-hình (metaphysicien) René Guénon. Những sự việc ấy, nuôi dưỡng
một sự tò mò trí-tuệ về việc siêu-hình, dù sự tò mò ấy
không đưa tới một điều gì cụ thể.
J.F. - Ba cắt ngang để con nói rõ hơn về
những tác-phẩm của René Guénon. Có phải đó là một tác-giả Pháp,
chuyên viết về vài triết-học Đông-phương? Ba có đọc tác phẩm
của ông ta nhưng không còn nhớ rõ ràng.
M. - Ông ấy đã viết lối hai mươi tác phẩm
về những truyền-thống siêu-hình Đông-phương, Tây-phương và về một
sự đồng nhất căn-bản của tất cả mọi truyền-thống siêu-hình.
Điều đáng chú ý là những tác phẩm như: "Orient et Occident",
"La crise du mode moderne", và "L' homme et son devenir selon le
Vedanta"; trong tác sau này ông ta cắt nghĩa về sự tiến-hóa của
loài người cho tới khi nhận thức được sự tuyệt đối hay là
"Phật tánh" trong mỗi người. Tất cả những điều ấy cũng
chỉ là những hiểu biết trí-tuệ.
J.F. - Hiểu biết trí-tuệ theo nghĩa
nào?
M. - Riêng đối với con, ngoài sự hài lòng
một cách sâu đậm và mở rộng sự hiểu biết khi đọc những tác phẩm
ấy, con không tìm thấy sự thay đổi nội tâm.
J.F. - Con đọc những tác phẩm ấy vào lúc
mấy tuổi?
M. - Ồ... vào khoảng 15 tuổi. Con cũng đọc
những điều ghi chép về cuộc đàm thoại với Ramana Maharshi, một
hiền-triết Ấn-độ mà mọi người coi như đã đạt tới sự hiếu biết cùng
tột về nội tâm, nguyên-lý bất nhị. Nhưng điều quyết định sự
chú tâm của con về Phật-giáo là vào năm 1966...
J.F. - Khi ấy con được 20 tuổi.
M. - Lúc ấy con hãy còn ở phân-khoa
Khoa-học, ngay khi sắp sửa vào viện Pasteur, con được xem những phim
ảnh mà bạn của con là Arnaud Desjardins thực hiện về những thiền-sư
lớn Tây-tạng đã phải chạy trốn sự xâm-lăng của Trung-Hoa, và đang
tị-nạn trên mạn nam của rặng Hy-mã-lạp-sơn, từ Cachemire tới Bhoutan.
Arnaud đã làm việc trong nhiều tháng, trong hai chuyến công-tác
với một người cố-vấn và thông ngôn, để quay phim những
thiền-sư này. Những phim ảnh này rất sống động. Trong thời gian
này, bác-sĩ Leboyer cũng vừa về tới từ Darjeeling, nơi mà ông ta
đã gặp vài thiền-sư. Lúc ấy con vừa thi xong một chứng-chỉ, và
có một thới gian 6 tháng nghỉ hè, trước khi thực sự bắt đầu
việc nghiên-cứu. Con nghĩ đến việc làm một cuộc du-hành. Đó là
thời gian của những "Hippies", trên những chiếc xe Citroen 2
ngựa, hay bằng cách đi nhờ xe để qua Ấn-độ bằng ngả
Thổ-nhĩ-kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan. Khi ấy con cũng bị lôi kéo
bởi môn võ-thuật và có ý định đi Nhật-Bản.
Nhưng khi nhìn thấy những hình ảnh mà Arnaud và Frédérick Leboyer thâu
thập được, những lời của các bạn của hai người này, và
những điều họ nói về những gì đã thấy ở rặng
Hy-mã-lạp-sơn...làm con có ý định đi tới đó hơn là chỗ nào
khác.
J.F. - Như vậy là những phim ảnh của
Arnaud Desjardins là khởi đầu mọi chuyện.
M. - Có rầt nhiều phim "Le Message des
Tibetains" (Bản tin của những người Tây-Tạng), "Hymalaya terre de
sérénité" (comprenant "Les enfants de la Sagesse" et "Le Lac
desYogis"), dài tất cả là 4 tiếng đồng hồ. Người ta có thể
trông thấy một cách thỏa thích những thiền-sư vừa đến từ
Tây-Tạng... hình dáng, cũng như lời nói của các vị này, cũng như
cách thức dạy dỗ môn-sinh của các vị ấy. Đó là một bằng
chứng sống động và gợi cảm.
J.F. - Các phim ấy có được chiếu trên đài
truyền hình không?
M. - Có, chiếu nhiều lần kể từ năm 1966,
và vừa mới đây được chuyển ra băng video 5. Đây là
những phim tài liệu rất đặc biệt.
J.F. - Có phải những vị này đã chạy khỏi
Tây-Tạng khi có cuộc Cách mạng văn-hoá đánh dấu một lần nữa
sự gia tăng đàn áp của Trung-Hoa ở Tây-Tạng?
M. - Sự thật là những ai có thể trốn khỏi
thì đã ra đi từ những năm 50 rồi. Ngay sau khi có sự bất hoà,
Tây-Tạng đã cắt đứt liên-lạc ngoại-giao với Trung-Hoa trong khoảng
1915 và 1945. Tây-Tạng đã có một chính-phủ riêng có liên-lạc
ngoại-giao với nhiều nước khác. Rồi thì Trung-Hoa bắt đầu xâm
nhập Tây-Tạng. Những sĩ-quan Tàu viếng thăm nước này. Họ nói
họ cảm thấy gần gũi văn-hoá và người dân Tây-Tạng. Họ còn
làm cả việc dâng lễ-vật tại các thiền-viện. Họ còn hứa giúp
đỡ những người Tây-Tạng cải thiện nếp sống. Nhưng vào năm
1949, họ đã xâm-lăng Tây-Tạng bằng vũ-lực quân-sự, bắt đầu
bằng việc chiếm khu vực phía đông có tên Kham. Cuộc xâm-lăng
được diễn ra một cách cuồng bạo, trải qua nhiều năm, để lộ rõ
ý định chiếm cứ vùng trung-tâm Tây-Tạng, dành quyền kiểm soát
lãnh thổ và quyền của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma. Vị này đã phải chạy
qua Ấn-Độ vào năm 1959. Ngay sau đó biên-giới Tây-Tạng bị đóng,
và sự đàn áp không nương tay được bắt đầu. Đàn ông, đàn
bà, và trẻ con đều bị tống vào nhà tù, trại cải tạo. Hơn một
triệu người Tây-Tạng -- một phần năm dân số-- đã bỏ mình vì
các lý do như: đã bị hành-quyết, ngã gục vì không chịu nổi sự
hành-hạ, sự đói-khát sau khi Trung-Hoa xâm-lăng nước này. Những
mồ chôn tập thể tự làm đầy, cái nọ sau cái kia. Ngay cả trước
khi có cuộc cách-mạng văn-hoá, sáu nghìn thiền-viện đã bị
phá-hủy gần như hoàn toàn. Những thư-viện bị đốt cháy, các pho
tượng bị vỡ nát, những thánh tích bị hủy-hoại.
J.F. - Con nói sao, sáu nghìn
tu-viện?
M. - Người ta đã làm thống kê lại 6150,
bị phá hủy. Nếu người ta nghĩ được rằng các thiền-viện là những cái
nôi văn-hoá Tây-Tạng! Điều đó nhắc nhở tới Goering khi ông ta
nói: "Khi tôi nghe tới chữ 'Văn-hoá' là tôi muốn rút súng
ra". Một điều có một không hai trong lịch-sử loài người, có
tới gần 20% dân Tây-Tạng là những nhà tu hành: thiền-sư, ni-sư,
cư-sĩ sống nơi ẩn cư, các bậc thức-giả lo việc giảng dạy tại
các thiền-viện. Một điều không thể chối cãi được là sự
tu-tập về tâm-linh là mục-đích chính của đời sống tại Tây-Tạng,
ngay cả những người có cuộc sống thế-tục đi nữa, thì việc làm
hàng ngày dù có quan-trọng đến mấy đi nữa cũng là điều thứ
yếu so với cuộc sống tâm-linh. Tất cả cuộc sống văn-hóa đều
đặt trọng tâm trên cuộc sống tâm-linh. Như vậy, khi làm tê liệt
những thiền viện, những trung tâm tu học, những nơi ẩn cư, thì
chính là tàn phá linh-hồn, cỗi rễ của văn-hóa Tây-Tạng. Nhưng họ
không thể phá-hủy được sức mạnh tinh-thần của người
Tây-Tạng. Các người Trung-Hoa đã làm những việc như: cười
cười nói nói, dùng tiền bạc, tuyên-truyền, tra-tấn, và
hành-quyết để mong khuất phục người Tây-Tạng nhưng đều thất
bại. Các người này vẫn tin-tưởng sẽ đạt được sự độc-lập
cũng như bảo vệ cuộc sống văn-hóa của họ.
J.F. - Ba muốn trở lại chuyện của con...
về những phim ảnh của Arnauld Desjardins. Con nói là chúng đã gây cho
con một ấn-tượng xâu đậm. Con hãy phân-tách và nói rõ hơn.
M. - Con có cảm tưởng là được nhìn thấy
những người tượng trưng cho các điều mà chính họ dạy dỗ... họ có
cái phong thái rất đáng chú ý. Con chưa hiểu rõ vì sao, nhưng điều
làm con chú ý là những thiền-sư này là biểu tượng của những
vị thánh, những con người hoàn toàn, các hiền triết, một loại
người mà ngày nay không còn tìm thấy ở Tây-phương. Đó là hình
ảnh của thánh Francois d'Assise, hay những hiền-triết lớn của đời
thượng cổ. Một hình ảnh đã chết trong con: con không thể gặp
được Socrate, hay nghe lời giảng của Platon, hay ngồi dưới chân
thánh Francois d'Assise! Trong khi đó, trước mặt con là những con
người thực, hiện thân của các triết nhân. Và con tự nhủ:
"Nếu có thể đạt được sư toàn hảo về mặt nhân sinh thì
đây là con đường".
J.F. - Ba muốn nói rõ về điều con đặt ra
trong phần con nhấn mạnh về những đặc điểm của triết-học đười thượng
cổ, đó là điều tương hợp giữa lý-thuyết và thực-hành. Đối
với nền triết-học đời thượng cổ, đó không phải là chỉ là
một môn dạy về tinh-thần, một lý-thuyết, một cách trình bày về
thế-giới hay về cuộc đời. Đó chính là sự sống. Triết-gia sống
đúng như những điều ông ta quan-niệm, và dạy dỗ. Điều làm con
chú tâm ở những thiền-sư Tây-Tạng cũng là một lối sống có
nguồn gốc tại Tây-phương này. Đó là lý do mà các triết-gia đảm
trách vai trò của bạn tâm giao, thầy giáo về tinh-thần, người
hướng đạo, người chăm lo về luân-lý, người đồng hành cao cả
của những nhân vật quan trọng cho tới cuối đế-quốc La-Mã; đặc
biệt là vào thời của Marc Aurèle mà Renan gọi là "Triều đại
của các triết-gia". Như vậy, đó là một nhãn quan đã có ở
Tây-phương : không hài lòng về những điều mình dạy, mà chính mình
phải là hiện thân của điều mình dạy bằng cuộc sống thực sự
của mình. Tuy nói thế, nhưng về thực tế, điều ấy có đạt được
tới sự toàn hảo, hay mong đợi lại là việc khác... Quan niệm về
triết-lý như thế, trong nhiều trường hợp, cũng gắn liền với
những khía cạnh tôn-giáo. Nền triết-lý thượng cổ ấy thường
có khía cạnh của sự cứu rỗi sau cùng của kiếp người. Ta có
thể tìm thấy ở những Epicurien (tuy rằng theo nghĩa hiện thời, chữ
"Epicurien" gợi ý về một sự lãnh đạm với việc
siêu-hình). Như vậy là có một sự cần thiết về hai sự kiện:
sáng tạo ra một Triết-lý, và phải là hiện thân của triết-lý ấy
bằng cuộc sống của chính bản thân. Trên phương diện triết-lý thì
đã không có sự khác biệt vào thời thượng-cổ giữa
Tây-phương và Đông-phương.
M. - Chính là sự việc ấy, nếu không quan
tâm tới việc sáng tạo ra một triết-lý mới, thì các thiền-sư Tây-Tạng
là những hiện thân trung thành của một tập-tục có từ nghìn năm. Dù
thế nào đi nữa, đối với con, thì đó là một sự an-ủi rằng
hiện vẫn còn một tập tục đẹp trong tầm tay mọi người. Sau khi đã
làm một cuộc du-lịch bằng trí qua sách vở, nay con có một cuộc
du-hành thực sự.
J.F. - Ba phải ngắt lời con... Con nói tập
tục đẹp nào? Con hiểu gì về chủ thuyết này? Mình không thể chấp nhận
một chủ thuyết đã có sẵn. Hơn nữa đó phải là một chủ thuyết có
giá-trị!
M. - Khi đó con chưa có ý niệm gì về
Phật-giáo, nhưng dù chỉ được coi các thiền-sư qua phim ảnh, việc ấy
cũng gây một ấn tượng sâu xa trong con. Đó là một nguồn hy-vọng. Trái
với nơi con sinh trưởng:
- Nhờ ba, con được gặp các triết-gia, các nhà tư tưởng, các
nghệ-sĩ;
- Nhờ mẹ con, Yahne Le Toumelin một họa-sĩ, con gặp các nghệ-sĩ,
thi-sĩ;
- Nhờ chú Jacques-Yves Le Toumelin, con gặp các nhà thám-hiểm nổi
tiếng;
- Nhờ Francois Jacob, con gặp các bác-học tới viện Pasteur để
thuyết-trình.
Như vậy là con đã được gặp các người đáng ghi nhớ, và dễ
làm con say mê về họ. Tuy vậy, các vị thần-linh trong các lãnh vực
họ theo đuổi không hoàn-toàn đi đôi với sự toàn hảo về con
người. Tài năng của họ, hay khả-năng trong lãnh-vực chuyên-môn
không làm họ thành người toàn-hảo. Một đại thi-sĩ có thể là
một kẻ ăn cắp, một bác học không hạnh phúc với chính mình, một
nghệ-sĩ đầy lòng kiêu ngạo. Mọi tổ hợp các tính tốt hay xấu
đều có thể sảy ra.
J.F. - Ba nhớ là đã có thời con say
mê âm-nhạc, thiên-văn, nghệ-thuật chụp ảnh, cầm điểu. Khi được 22
tuổi, con đã viết một quyển sách về sự di chuyển từng mùa của
các động vật 6, và con cũng đã có thời say mê
âm-nhạc.
M. - Vâng... con đã gặp Igor Stravinsky
và những nhạc sĩ tên tuổi khác. Con có dịp được chen vai với những
người được Tây-phương ngưỡng mộ, và có dịp tự hỏi: "Đó có
phải là điều con mong muốn không? Con có muốn trở thành một
người như họ không?" Mặc dù rất ngưỡng mộ, con vẫn chưa cảm
thấy thỏa mãn, vì các vị thần thể hiện trong lãnh vực chuyên môn
của các người này không đi đôi với con người toàn-hảo ngay
trong các tính nết đơn giản như lòng vị tha, sự tử-tế, sự
thành-thật. Trong khi đó, qua những phim ảnh con tìm thấy hơn thế
nữa, nếp sống của các thiền-sư Tây-Tạng là hiện thân của
những điều các vị ấy giảng dạy. Vì vậy con lên đường tìm kiếm.
Anh bạn của con là Christian Bruyat, khi đang chuẩn bị thi vào trường
sư-phạm, cũng bị đánh thức khi nghe được đoạn cuối của một
chương-trình phát thanh mà tóm lược là: "Tôi tin rằng những
hiền-triết lớn sau cùng, hiện thân của cuộc sống tâm-linh ngày nay,
là các thiền-sư Tây-Tạng đang tị nạn trên rặng Hy-Mã-Lạp-Sơn
thuộc Ấn-Độ." Ngay khi ấy, anh ta cũng quyết-định cuộc du hành.
Thế là con đáp một chuyến máy bay loại rẻ tiền đi Ấn-Độ. Lúc
ấy, con gần như không nói được một câu tiếng Anh! Ba đã khuyên
con học tiếng Đức, tiếng Hy-Lạp, và tiếng La-tinh, những ngôn ngữ
khó hơn tiếng Anh, tiếng này sẽ đến với con một cách tự nhiên.
Điều này ba rất đúng... tạm thời con quên hết tiếng Đức và
các ngôn ngữ khác! Con tới Delhi với một quyển tự-điển bỏ
túi, một cẩm nang du-lịch, con phải vất vả lắm mới kiếm thấy
đường, mua vé xe lửa đi Darjeeling để tới những đỉnh núi đẹp
của rặng Hy-Mã-Lạp-Sơn. Con có địa chỉ của một cha thuộc dòng
cứu-thế, mà bác-sĩ Leboyer đã gởi gấm một số tiền để giúp
đỡ một thiền-sư lớn Tây-Tạng, Kangyour Rinpotché, vị này đã tới
Ấn-Độ vài năm trước. Vị này sống rất đạm bạc với cả
gia-đình trong một cái nhà nhỏ bằng gỗ, với tất cả sách vở mà
ông ta đem theo được. Tình cờ, ngày hôm sau khi con tới, con của vị
Lạt-ma này tới tu-viện để nhận số tiền ít ỏi hàng tháng.
Người con của Lạt-ma Kangyour Rinpotché đã dẫn con về gia-đình. Con
sống quanh quẩn bên thiền-sư trong ba tuần lễ...Đó là những giờ
đáng nhớ... Đó là một ông già 70 tuổi mà vẻ hiền hòa như tỏa
ra chung quanh, tựa lưng vào khung cửa sổ mà qua đó là một đại
dương của mây được chọc thủng bởi ngọn Kanchenjungna vươn cao lên
tới hơn tám nghìn thước. Con ngồi trước mặt vị này suốt ngày
và làm điều mà nhiều người gọi là "ngồi thiền", nghĩa
là cố tập-trung tư-tưởng trước sự có mặt của ông ta. Một vài
khi con nhận được vài chữ chỉ bảo, gần như là không có dạy dỗ
gì. Con ông ta nói tiếng Anh, con thì không. Chính là cá nhân, phong
thái, sức mạnh, sự tinh khiết và lòng yêu thương tỏa rộng ra từ
vị Lạt-ma đã mở mang trí tuệ con...
Sau đó, con tiếp tục cuộc du hành. Con tới Cachemire. Con bị bệnh
thương-hàn tại Ấn-Độ, và con phải trở về... Khi đáp xuống
phi-trường Damas, con tự nhủ sao không nhân dịp này xem luôn phong
cảnh, vì vậy con đã tiếp tục bằng xe lửa. Con đã thấy mộ phần
của thánh Ibn Arabi, Krakh des Chevaliers, những đền thờ hồi giáo ở
Istanbul. Sau đó con tiếp tục cuộc hành-trình bằng cách đi nhờ xe
tới tu-viện Tournus, nơi đó con ngồi thiền trong sự mát mẻ, yên
tĩnh và không bị phiền rộn, trong khi ở bên ngoài, những người
nghỉ phép tháng 8 trở về bị kẹt xe cộ trên đường. Sau đó, vì
mệt mỏi, con đáp xe lửa về Ba-Lê. Tóm lại, một cuộc đảo lộn
về thể xác và một khám phá lớn lao về nội tâm. Mãi một năm
sau, khi con đang học năm đầu ở viện Pasteur, con mới nhận thức ra
được tầm quan trọng của sự gặp gỡ với đạo-sư của con. Những
đức tính của ông ta cứ lởn vởn trong đầu con. Con nhận thức
được như có một điều gì làm cho cuộc đời của con có ý nghĩa
tuy là chưa rõ ràng lắm.
J.F. - Như vậy ta có thể nói sự thay đổi
quan trọng ấy --để khỏi phải dùng tiếng "cải đạo" một cách quá
sớm-- không phải là một sự thấm nhuần về những tin tức về
trí-tuệ, chủ-thuyết, triết-lý của những kinh sách Phật-giáo, nhưng
chính là, và bắt đầu bằng một sự tiếp xúc cá nhân.
M. - Đúng như vậy. Sự học hỏi sau đó mới
đến.
J.F. - Đó có phải là lúc có nhiều người
trẻ tuổi Tây-phương, từ Âu-châu, từ Mỹ-châu đổ qua Ấn-Độ?
M. - Đó là một năm trước tháng 5, năm 1968. Họ
tìm kiếm một cái gì khác, hút cần sa...Có người làm cuộc tìm
kiếm tinh-thần, viếng thăm tu-viện Ấn-độ-giáo, người khác thì
thám hiểm Hy-mã-lạp-sơn. Mọi người tìm kiếm một cái gì, chỗ
này, chỗ kia, mọi nơi. Thông thường họ trao đổi các ý tưởng,
các tin-tức: "Tôi đã gặp người này có tài đặc biệt tại
nơi này... Tôi đã chứng kiến phong cảnh kỳ thú ở Sikkim.. Tôi
đã gặp nhạc-sư nọ ở Bénarès, ông thầy về yoga ở phía nam
Ấn-Độ", vân vân. Đó là thời mà họ đặt câu hỏi về mọi
việc, họ tìm tòi, thám-hiểm, không phải trong sách vở mà trong
thực-tế.
J.F. Vậy trong số những người Tây-phương ra đi
tìm kiếm điều mới về tâm-linh, có nhóm quan trọng nào đi tới
Darjeeling không?
M. - Vào khoảng thời gian đó thì rất ít.
Chỉ độ vài chục vào những năm 60, và 70. Rồi theo dòng thời gian, sự
chú tâm vào các thiền-sư Tây-Tạng và sự giảng dạy của họ tăng
lên. Vào năm 1971, những thiền-sư Tây-tạng đầu tiên mới đi
Âu-châu -- qua Pháp, qua Mỹ. Dần dà, hàng trăm, rồi hàng ngàn
người Tây-phương theo học vác vị ấy. Có khá nhiều những người
Tây-phương này trải qua nhiều năm trên rặng Hy-mã-lạp-sơn sống
gần các đạo-sư của họ, hay tới đó một cách thường xuyên để
gặp các vị này.
Để trở về với câu hỏi mà ba đạt ra trước đây, sự quan tâm
của con không được đặt trên sự học tập về giáo-lý đạo
Phật. Việc đó không sảy ra trong chuyến du hành đầu tiên, mà cũng
không sảy ra trong hai ba chuyến đi sau đó. Con trở qua Ấn-Độ để
gặp lại đạo-sư của con. Thật ra con có được dạy về những điều
căn bản, nhưng không phải là sự dạy dỗ về giáo-lý đạo Phật.
Thầy con còn nói: "Có rất nhiều điều thú vị trong Phật giáo,
nhưng phải cố tránh đừng rơi vào phần lý thuyết hay kinh điển; vì
có thể lãng quên việc tu luyện tâm-linh, mà đó mới chính là cỗi
rễ của đạo Phật, con đường dẫn tới sự thay đổi nội tâm."
Tuy nhiên, trước vị đạo-sư, con nhận ra bằng trực giác được sự
tương quan giữa thầy trò: sự hòa nhập tâm trí của trò với tâm
trí của thầy. Người ta gọi là "hoà đồng tâm trí với
thầy"; tâm của thầy là "giác" ; tâm của trò là
"vọng". Nhờ vào sự "hoà đồng tâm-linh" để đi
từ vọng tới giác. Sự quán tưởng này là chìa khóa của sự tu
học đạo Phật Tây-Tạng.
J.F. - Như vậy điều mà con gọi là giác, đó
... là bước đầu của một tôn-giáo.
M. - Không, đó là kết quả của sự thay đổi
nội tâm. Trong Phật-giáo, giác là sự thấu hiểu được bản chất của
sự vật chung quanh ta, của nội-tâm. Ta là ai? Thế-giới là gì? Đó
là sự nhận thức cùng tột về sự thực tuyệt đối vượt ra
ngoài mọi quan niệm đối đãi thông thường. Đó là sự biết
căn-bản vi-tế nhất.
J.F. - Như vậy, đó là một vấn đề Triết-lý?
M. - Đúng thế.
J.F. - Cho tới khi có những phát-minh
khoa-học, Môn Triết-học thời thượng cổ tự coi như biết tất cả, vì cho
tới khi có sự hiểu biết về vật-lý cận-đại khoảng thế-kỷ 17, các
triết-học bao gồm sự hiểu biết về thế-giới vật chất, về
thế-giới của các sinh-vật, về vấn đề luân-lý, về con người
hiện tại, cũng như sau khi chết, về một đấng tối cao dưới hình
thức một con người như theo như Aristote, hay là Thiên-nhiên như
những stoicien, hay như Spinoza. Chủ thuyết này đã
được xem như không thể theo được. Chúng ta sẽ trở lại chuyện này
sau.
Chữ "giác" hay sự hiểu biết còn có một khía cạnh khác
tạm gọi là tinh thần Socrate. Theo Socrate, hiểu biết là hậu quả của
khoa-học. Theo ông ta thì không có sự khôn ngoan xuất phát từ
linh-tính. Tất cả đều từ sự hiểu biết (khoa-học). Sự khôn ngoan,
và linh tính đều bắt nguồn từ khoa học. Theo như triết-học thời
cổ, sự đạt được một hình thức khôn ngoan, và hạnh-phúc, hay
điều mà người ta gọi là "sự tốt chúa tể" -- nghĩa là
đạt tới sự thăng bằng hoàn toàn về những đức tính tốt đối
với những tính khác cho hạnh phúc cá-nhân-- thì đều bắt nguồn
từ khoa-học. Điều mà các triết gia thượng cổ coi là hiểu biết
khoa-học có phải là điều con ngộ theo Phật-giáo không? Khi đạo-sư
của con nói: ngộ là sự nhận ra được lý tính tuyệt-đối của
mọi vật., ba có thể nói, điều ngộ ấy bao hàm phạm vi rất rộng!
Vì nó gồm sự hiểu biết về tẩt cả mọi hiện tượng bên ngoài,
về chính con, và về những việc siêu-hình.
M. - Phật-giáo chắc chắn bao gồm sự học về
khoa-học truyền-thống, như là y-khoa, ngôn-ngữ, ngữ-pháp, thi văn,
phép tính thiên-văn (đặc biệt là tính nhật, nguyệt thực),
chiêm-tinh học, thủ công và nghệ-thuật.. Y-học Tây-Tạng đặt căn
bản trên thực-vật và khoáng vật, đòi hỏi thời gian học-tập
nhiều năm; theo lời đồn, các nhà giải phẫu Tây-Tạng đã chữa
cho một bệnh nhân bị màng ở mắt bằng một con dao làm bằng vàng,
tuy rằng những việc ấy ngày nay đã chìm vào quên lãng. Nhưng
khoa-học "chính-yếu", đó là sự biết về cái ta, và về
vũ-trụ; câu hỏi chính-yếu là: "Thực chất của vũ-trụ, của
sự suy-nghĩ là gì?", và trên phương-diện thực-hành: "Đâu
là chìa khóa của hạnh-phúc và của khổ-đau? Sự khổ-đau từ đâu
ra? Sự ngu-dốt, vọng, là gì? Sự chứng ngộ tâm-linh là gì? Sự
toàn-hảo là gì?" Những loại khám phá về các điều ấy mà ta
gọi là sự hiểu biết.
J.F. - Sự thôi thúc đầu tiên có phải là
thoát khỏi khổ đau?
M. - Sự khổ đau bắt nguồn từ sự ngu dốt.
Cần phải xoá bỏ sự ngu dốt. Và sự ngu tối đó, thực ra là sự
quyến luyến cái "tôi", và việc coi các hiện tượng là cố
định. Xoa dịu các khổ đau của chúng sinh, các người quanh ta, là một
bổn phận, nhưng điều đó chưa đủ: cần phải xóa bỏ căn nguyên
của sự ngu dốt, vọng tâm. Tất cả những điều đó chưa rõ ràng
đối với con lúc đó. Con tự nhủ: "Không có lửa làm sao có
khói; khi con trông thấy đạo-sư của con, phong thái bên ngoài, khi ông
ấy nói, lúc cư sử, tự tại... tất cả các điều ấy tạo trong con
một quyết đoán nội tâm là nơi đạo sư của con có điều gì
căn-bản mà con cần thâm cứu. Ông ấy là nguồn cảm hứng của con,
một sự chắc chắn, một sự toàn hảo mà con muốn đắm mình trong
đó." Con chỉ định cư tại Ấn-Độ sau khi đã làm năm hay sáu
chuyến du-hành qua đó. Con cũng nhận ra một điều là khi con ở gần
đạo-sư của con, con có thể quên viện Pasteur, nơi tượng trưng cho
cuộc sống của con ở châu Âu, một cách dễ dàng; trái lại khi con
ở viện Pasteur, tâm trí của con cứ bay về phía Hy-mã-lạp-sơn. Con
đã lấy một quyết định mà con không hối tiếc: sống tại nơi con
cảm thấy thoải mái!
Sau khi con trình luận-án thì giáo-sư Jacob định gởi con qua Hoa-Kỳ để
làm việc về một cuộc nghiên cứu mới; việc đó đã thuộc về
quá khứ, vào lúc ấy là nghiên cứu về tế bào của các
vi-khuẩn, đó là một ngành nghiên cứu đang mở rộng làm thay đổi
hẳn môn tế-bào sinh-vật-học. Con tự nhủ là con đã hoàn tất một
chương (về cuộc đời con): con đã xuất-bản những bài khảo-luận
liên quan đến 5 năm làm việc của con; con không phí phạm những sự
đầu-tư của gia-đình vào việc học của con, cũng như của giáo-sư
Jacob, người đã nhận con vào viện Pasteur...Nhìn theo cách nào thì
đó cũng là bước ngoặt về sự tìm kiếm của con...Con có thể
lựa chọn một con đường khác mà không làm đổ vỡ, hay gây thất
vọng cho những người đã giúp con tới lúc trình luận-án tiến-sĩ.
Bây giờ con có thể thực hiện những hoài bão cá-nhân một cách
thanh thản. Hơn nữa đạo-sư Kangyour Rinpotché, luôn luôn bảo con chấm
dứt việc học mà con đã theo từ trước. Con cũng không làm việc
vội vàng; con đã chờ đợi nhiều năm, từ 1967 tới 1972, trước
khi quyết định cư-trú tại rặng Hy-mã-lạp-sơn. Chính đó là lúc con
thông báo cho giáo-sư Jacob, và ba về quyết định đi tới rặng
Hy-mã-lạp-sơn, chớ không đi Mỹ. Con cũng nhận ra đó là việc con
muốn làm, và điều tốt nhất là bắt đầu ngay, chớ không đợi
đến năm 50 tuổi rồi hối hận đã không lựa chọn con đường này.
J.F. - Nhưng con không thấy hai con đường
đó có chỗ nào dung hợp nhau sao?
M. - Không có sự đối nghịch căn bản giữa
khoa-học và đời sống tâm-linh, nhưng với con điều sau quan-trọng
hơn. Về phương diện thực tế, ta không thể ngồi giữa hai cái ghế,
hay khâu vá với cái kim có hai đầu. Con không muốn phải chia sẻ
thời giờ, mà muốn dành trọn vẹn thời gian cho công việc mà con
coi là quan-trọng. Về sau, con nhận ra rằng những căn bản khoa-học,
đặc biệt với sự chính xác, thì hoàn toàn thích hợp với vấn
đề siêu-hình và việc tu-học đạo Phật. Hơn nữa, đối với con,
việc quán tưởng thực là một khoa-học về trí-tuệ, với những
giả-thuyết, những phương thức trong khi làm việc, và những kết
quả. Nó đòi hỏi một sự thay đổi thực sự, chớ không phải
việc mơ mộng, hay hưởng nhàn. Và trong suốt 25 năm sau, con không bao
giờ lơi là việc áp dụng tinh-thần khoa-học mà con được biết,
đó là sự tìm kiếm sự-thật.
J.F. - Tốt... ba hài lòng thấy con đã
áp-dụng những tiêu-chuẩn cặn kẽ trong việc khảo cứu triết-lý, lịch-sử,
cùng các kinh sách Phật-giáo, vân vân...Nhưng việc nghiên-cứu về
tế-bào sinh-vật-học trong suốt 30 năm qua là một khu vực có nhiều
khám phá về khoa-học. Con đã không tham dự được. Con đã có thể
tham dự!
M. - Môn sinh-vật-học vẫn tiến-triển được
mà không cần con. Trên trái đất này còn rất nhiều người. Câu hỏi
thật sự là làm sao thiết lập một thang về những ưu-tiên trong
cuộc đời con. Con có cảm tưởng mỗi lúc một lớn về việc tận
dụng khả-năng của con, không được để lãng phí. Đối với con,
khối lượng kiến-thức khoa-học đang trở thành "một đóng góp
to lớn cho một ưu tiên nhỏ".
J.F. - Việc con làm là thâm cứu về một
chủ-thuyết đã có từ nhiều thế-kỷ, chớ không đem lại được một điều gì
mới mẻ, nếu con chọn con đường tế-bào sinh-vật-học. Ba không nói
là phải có một sự khám-phá mới mẻ để thành-công ở đời.
Ở trình độ học-vấn của con, việc con trình luận-án là một sự
tận cùng, nhưng cũng là một khởi đầu cho những khảo-cứu
quan-trọng về sau. Con có trong tay, tất cả những gì cần thiết để
tham-gia vào một cuộc phiêu-lưu khoa-học lạ lùng của lịch-sử loài
người, mà những khám-phá gần đây là bằng chứng.
M. - Con xin lưu ý là trong Phật-giáo,
công việc tìm kiếm để dẫn tới sự thay đổi nhận-thức về tâm-linh là một
việc sống động, chớ không phải là việc phủi bụi một triết-lý
cổ xưa. Một truyền-thống siêu-hình như Phật-giáo không
"già", vì nó trả lời cho câu hỏi căn bản nhất về đời
sống. Theo dòng thời-gian, những lý-thuyết về khoa-học thường trở
nên lỗi thời, và được thay thế bằng một lý-thuyết khác.
J.F. - Đúng thế, nhưng chúng được thay
thế bằng những lý-thuyết khác vì những lý do tốt:, vì sự hiểu biết
gia-tăng, vì ta tìm thấy những dữ-kiện mới, vì sự thử-nghiệm
đánh đổ giả-thuyết.
M. - Môn sinh-vật-học, và môn vật-lý quả
có đem lại những hiểu biết về nguồn gốc của đời sống, và sự hình
thành của vũ trụ. Nhưng những hiểu biết ấy đâu có thể nào làm
sáng tỏ nguyên nhân của hạnh-phúc và sự khổ đau? Ta không nên
quên mục tiêu mình nhắm tới. Việc biết chính xác hình dáng và
kích thước của quả đất là điều không thể chối cãi, nhưng sự
việc quả đất tròn hay phẳng không thay đổi gì ý nghĩa của đời
sống. Những tiến-bộ về y-khoa chỉ có thể làm dịu sự đau khổ,
nhưng rồi nó sẽ trở lại và tận cùng với cao điểm là cái
chết. Người ta có thể ngừng một cuộc tranh chấp, một cuộc
chiến-tranh; nhưng những cái khác sẽ sảy tới, nếu như lòng người
không thay đổi. Thay vào đó, có cách nào tìm thấy sự an-bình nội
tâm mà không phụ thuộc vào sức-khoẻ, quyền-lực, sự
thành-công, tiền-bạc, những thú vui thể-xác; một sự bình lặng
bên trong làm nguồn gốc cho sự bình lặng bên ngoài?
J.F. - Ba hiểu điều ấy, nhưng ba không
thấy vì sao hai hướng đó lại phải đối nghịch nhau. Môn sinh-vật-học,
khoa-học, đặc biệt là môn tế-bào sinh-vật-học, giúp chữa trị các bệnh
tật, như thế là làm giảm sự khổ đau của nhân-loại. Và sự
hài-lòng của trí tuệ về một khám phá là một sự hài lòng vô
vị lợi. Con có khi nào nghĩ đến việc hợp nhất hai hướng đi của
con?
M. - Phật-giáo không đối nghịch với
khoa-học. Nó coi khoa-học là một tầm nhìn quan-trọng nhưng chỉ là một
phần nhỏ của sự hiểu biết. Vì thế con cảm thấy không cần phải coi cả
hai có cùng tầm quan trọng, và phải chia hai cuộc sống của con. Con
cảm thấy như là một con chim trong lồng, lúc nào cũng chỉ nghĩ "Ta cần
tư-do".
J.F. - Thế con có theo dõi các tiến triển
khoa-học không?
M. - Con vẫn tiếp tục theo dõi những khám
phá về sinh-vật-học y như khi con say mê lập bảng các nhiễm-thể của
các vi-khuẩn, mà con đã trải 5 năm trong việc nghiên-cứu. Nhìn theo
nhãn quan toàn thể địa-cầu, kết quả của sự nghiên-cứu của hàng ngàn
người trong vài thập niên qua, là điều rất thích-thú; nhưng một
nhà nghiên-cứu dùng nhiều năm của đời mình chỉ để chú tâm
vào một phạm-vi rất nhỏ. Những thành-phần của một bức tranh loại
nát óc (puzzle) một khi được ráp lại cho ta hình ảnh rõ ràng về
một hiện-tượng vật-lý hay sinh-vật-học. Nhà nghiên-cứu đôi khi
cũng bị thất-vọng khi dùng thật nhiều công sức để chỉ đạt
được một kết quả nhỏ. Dù đôi khi cũng khám-phá ra một
sự-kiện quan-trọng, chẳng hạn như cấu-trúc của DNA...
J.F. - Hình chân vịt kép...
M. - ...điều này là phần thưởng lớn lao
cho sự các cố-gắng. Nhưng đây là một ngoại lệ. Con không thể so sánh
sự thích-thú của việc nghiên-cứu khoa-học và việc nghiên-cứu
về tâm-linh, việc sau này cho con một sự thỏa-mãn, một niềm vui trong
mọi lúc -- như là một mũi tên bay thẳng tới đích mỗi giây phút
quý báu được dùng một cách tốt đẹp nhất.
J.F. - Sau này con làm gì?
M. - Con không di chuyển khỏi Darjeeling
trong suốt 7 năm. Con sống bên cạnh thầy của con là Kangyour
Rinpotché, cho tới khi ông ấy qua đời năm 1975; rồi con sống ẩn-cư ở
trên thiền-viện. Đó là lúc con gặp vị đạo-sư thứ hai là Dilgo Khyentsé
Rinpotché, ông ta tới để điều khiển tang lễ của đạo-sư Kangyour
Rinpotché. Con cũng ở Delhi một năm để sao chép và in lại khoảng 50
quyển về các bản thảo rất hiếm. Khi đó các bạn con sắp sửa việc ẩn cư
theo truyền-thống lối 3 tháng ở Dordogne, con hỏi đạo-sư Khyentsé
Rinpotché có nên theo các bạn con không. Vị này trả lời: "Khi
nào ta còn ở tại thế này, hãy học ở gần ta." Vì thế con
đã sống 12 năm bên cạnh thầy con, nghe sự chỉ dạy, chăm sóc và
tháp tùng người trong các chuyến du hành. Con trở thành tu-sĩ năm
1979. Những năm tháng sống với thầy con là những sự ẩn cư, và
dạy dỗ tốt đẹp mà con có thể có được, những năm tháng mà
con không thể quên được, thời gian con nhận thức được sự chắc
chắn nội tâm điều mà không ai có thể lấy đi được.
J.F. - Con cũng đã sống ở Bhoutan, nhưng
con có biết về Tây-Tạng không?
M. - Bhoutan là một vương quốc đồi núi
thoát khỏi các cuộc xâm lăng kể từ khi Phật-giáo được truyền-bá đến
đây vào thế-kỷ 13. Văn-hoá Phật-giáo có dịp nảy nở không bị
chướng ngại, và các giá-trị của đạo Phật đã ăn xâu vào
tâm-tư mọi người dân. Sau khi phải chạy khỏi Tây-Tạng để tránh
họa Trung-Hoa, đạo-sư Khyentsé Rinpotché trở thành đạo-sư được
trọng vọng nhất tại Bhoutan, từ vua cho tới thường dân. Đó cũng
là một vinh hạnh cho con khi sống ở đây. Con cũng có dịp tháp tùng
thầy Khyentsé Rinpotché đi Tây-Tạng 3 lần. Thiền-viện của thầy con
chỉ còn là đống gạch vụn. Nhưng đối với những người còn sống
sót, đôi khi đã trải 15, 20 năm trong lao tù, thì sự trở về của
thầy con, sau hơn 30 năm tị nạn, như là bình minh tới sau một đêm
dài. Mặc dù những thảm họa đang sảy ra, Tây-Tạng là nơi
thuận-tiện nhất cho đời sống quán-tưởng. Bây giờ
con đặt lại vấn đề, con không thấy ý nghĩa của các câu hỏi. Ba
làm con tả lại và cắt nghĩa về đời sống của con; mà chắc rằng
chuyện sẽ trở lại. Ba có dự tính gì? Điều gì làm ba muốn có
cuộc thảo luận này?
J.F. - Điều hiển nhiên là sự tò mò về
cuộc đời con, vì đó là một sự cắt đứt hoàn toàn về đời sống,
sự học, môi trường văn-hóa con đã sống cho tới khi trưởng
thành. Cuộc đời của ba, cổ-điển hơn, dù rằng trong thâm tâm ba
cũng đã cắt đứt với những suy-tưởng của thế-hệ mà ba lớn
lên. Nhưng ba lập lại, là vẫn ở trong khuôn khổ nền văn-hóa của
ba.
M. - Nhưng điều gì đã làm ba muốn đàm
luận với con, một người đã trở nên đại diện của một nền văn-hoá
khác?
J.F. - Trước hết, đó vừa là một nền
văn-hóa khác, và nền văn-hóa cũ. Triết-lý vùng Cận-đông là một phần
của truyền-thống nhân-loại, dù ta có thể than phiền là đã không
được nghiên cứu đầy đủ ở Tây-phương, ngoài một nhóm
chuyên-gia. Bây giờ nghĩ lại, hồi ba được 19 tuổi đang theo học
đại-học, ba đã hướng về triết-học thay vì Văn-chương, hay
Lịch-sử mà ba cũng thích, vì ba nghĩ hình như Triết-học có thể đem
lại chìa khóa cho sự hiểu biết bao chùm những môn khác,
Văn-chương, Lịch-sử, và cả Khoa-học nữa. Và đó là một sự
hiểu biết nhưng đồng thời cũng là một sự khôn-ngoan, nghĩa là
một thuật để sống, cộng thêm với luân-lý nữa.
M. - Và nền triết-học Tây-phương đã không đem
lại cho ba cái chìa khoá ấy ?
J.F. - Ba sẽ không nói như thế. Ba nói
rằng hình như nó đã cố ý phản bội mục-tiêu của nó, đặc biệt là từ
thế-kỷ 19 trở đi. Ba chỉ đạt đến điều kết-luận này sau nhiều
năm làm quen với những bản văn nguyên gốc (của chính tác-giả),
và cố giữ sự xa lánh sự chỉ đạo của những chủ-thuyết như
"nhóm diễn giảng lại". Những cảm nghĩ này dẫn ba tới việc
xuất-bản cuốn sách đầu tiên, Pourquoi des Philosophes? (Vì sao có
những Triết-gia?), được in vào năm 1957. Quyển sách ấy được
thành-công, có nhiều tiếng vang, mà ba cũng hơi ngạc-nhiên. Những
tiếng vang không phải là sự đồng ý, mà xa hơn nữa, sự phản
đối trong đám triết-gia làm ba như muốn điếc tai. Tiếng vang của
những điều cần tranh-luận ấy làm ba phải tiếp-tục trả-lời cho
những luận cứ đối-nghịch trong quyển sách khác tựa đề "La
Cabale des dévots" (Cái lều của những người sùng đạo), in năm
1962, đó là sự nối dài của quyển "Pourquoi des Philosophes?"
M. - Tuy nhiên sau này, mọi người biết ba
là một người viết về chính-trị. Làm sao ba có thể cắt nghĩa sự thay
đổi ấy?
J.F. - Đó không phải là sự thay đổi, vì
chính-trị chỉ là một phần của Triết-học. Ba không mất thì giờ kể về
cuộc đời của ba, vì ba vừa cho xuất bản quyển hồi ký
tự-thuật xong.
Lý-thuyết chính-trị không những luôn luôn là một phần của
Triết-học, mà kể từ thế-kỷ 18, và đặc-biệt là thế-kỷ 19, nó
là phần chính của luân-lý học. Nguyên-lý chủ đạo của
"Thế-kỷ ánh sáng", và sau này của chủ-nghĩa xã-hội
"khoa-học" của Karl Marx, Lenine thì việc tìm kiếm hạnh-phúc,
công bằng không còn thuộc phạm-vi cá-nhân nữa mà là sự xây
dựng lại toàn-bộ xã-hội. Và để xây dựng xã-hội mới, thì
việc đầu tiên là phải phả hủy cái xã-hội cũ. Vì thế, vào
cuối thế-kỷ 18, ý niệm về một cuộc cách mạng mang tính chất một
trào lưu. Quyền-lợi của cá-nhân phải phục tùng quyền-lợi của
tập-thể. Ba nghĩ là chúng ta sẽ phải bàn thêm về việc này. Bây
giờ, ba chỉ cần nói là vào khoảng 1965, 1970 ba nhận ra sự thất bại
không thể tránh được của những chế-độ độc-tài đã tàn phá
thế-kỷ 20 của chúng ta. Ngay năm 1970 ba đã viết cuốn sách về
chính-trị tổng-quát (ba cũng xuất bản vài cuốn trước đó, nhưng
đặc biệt về nước Pháp). Đó là quyển "Ni Marx ni Jesus"
(dịch ra tiếng Anh là "Without Marx or Jesus", in tại Mỹ-- Không
Chúa hay Karl Marx), tựa đề có 2 phần chối bỏ: sự độc-tài về
chính-trị, và sự độc-tài về tôn-giáo. Cuốn sách ấy gây ra vài
điều ngạc nhiên, vì ba bênh vực cuộc cách-mạng thực-sự trong
thế-kỷ 20 này là cách-mạng của tự-do, không phải là cách-mạng
xã-hội, cái này đã chết rồi. Quyển sách này được nổi tiếng
khắp thế-giới. Nó đứng vào hàng bán chạy nhất nước Mỹ trong
gần một năm (vì ba bênh vực "xã-hội mở", của Mỹ, chống
lại "xã-hội kín" , kiểu xã-hội xã-hội chủ-nghĩa, hay
phát-xít). Quyển ấy đã được dịch ra lối 15 thứ tiếng, ba hiện
có một ấn bản bằng tiếng "Malgache"( Mã-Lai?)!
M. - Có phải vì sự thành công này đẩy ba
gần với việc viết về chính-trị -- chủ-biên về chính-trị của những
tờ báo lớn-- và ba đã xa dần môn Triết?
J.F. - Ba không xa lánh môn Triết. Như
trong quyển "Ni Marx ni Jesus", và những tác phẩm sau được đặt nền
trên bản tính con người, dù là dùng những thí dụ thời cận đại, vẫn
là câu hỏi của mọi thời-đại. Như trong "La Tentation
totalitaire", 1976 (Khuynh hướng độc-tài, in 1976) đặt câu hỏi chính
như sau: Trong con người ta có sự thèm-khát về nô-lệ chính-trị, hay
sự hiểu biết; sự thèm khát đến nỗi nó hoá-trang thành sự
tìm-kiếm tự-do? Thí-dụ khác như trong quyển: "La connaissance inutile,
1988 (Sự hiểu biết vô ích, in 1988); khởi điểm từ nghi-vấn: Tại
sao loài người, trong suốt dòng lịch-sử, lại cố tình quên những
tin-tức có thể giúp tránh khỏi những thảm họa? Tại sao lại lao
mình như là định-mệnh, vào sự thất-bại, sự đau-khổ, và sự
chết? Ba có thể gọi đó là những bài toán Triết-lý. Ba không
muốn nói nhiều về những tác-phẩm của ba.
M. - Và những tác-phẩm ấy cũng có những
độc-giả toàn thế-giới như quyển "Ni Marx ni Jesus"?
J.F. - Cũng tương đương, dù còn tùy từng
quốc-gia. Như quyển "La connaissance inutile" không được thành công
tại Mỹ, nhưng bán rất chạy tại những nước thuộc khối La-tinh,
Tây-ban-nha, Ý-đại-lợi, Bồ-đào-nha, châu Mỹ la-tinh, và lẽ dĩ
nhiên là Pháp; cũng như tại các nước trước kia thuộc Liên-bang
Sô-viết sau 1989, khi bức tường sắt được hạ xuống, và các sách
vở, cùng tư-tưởng được tự-do lưu hành. Nhưng điều chính-yếu
không phải ở đó. Sự bí-mật nằm ở chỗ: Có được nhiều
độc-giả không có nghĩa là có nhiều người hiểu được, hay đạt
được tới chổ có ảnh-hưởng làm thay đổi thực-tế. Ngay cả
trường-hợp may mắn như của ba, ngoài sách, còn có những cuộc
hội-thảo trên bình-diện quốc-gia, và quốc-tế giúp truyền bá và
trình bày quan-điểm của ba tới một số đông lớn lao hơn nữa.
M. - Làm sao có thể cắt nghĩa được điều
bí-mật đó?
J.F. - Nếu ta có thể cắt nghĩa một cách
hoàn-toàn, thì ta có thể chữa được căn bệnh đang sảy ra. Và như vậy là
chúng ta lại trở về môn Triết-học "chính yếu", nhằm
chinh-phục sự sáng-suốt, sự khôn ngoan của mỗi người, tóm lại
trở về mục-đích của cuộc đối-thoại của chúng ta.
5
: Alizée Diffusion, B.P. 3, 07800 St.-Laurent-du-Pape.6
: Les migrations animales, Robert Laffont, 1968.stoicien
: quan niệm một người khôn ngoan, phải biết chế ngự sự đam mê, không bị lôi kéo bởi các việc vui hay buồn, chỉ tuân theo luật tư-nhiên.quán-tưởng
: Xem L'Espris du Tibet, đời sống và thế-giới của Khyentsé Rinpotché, nhà xuất bản Seuil, 1996; và Moines danseurs du Tibet, Albin Michel, 1990.hồi ký tự-thuật
: Le voleur dans la maison vide (Kẻ ăn trộm trong ngôi nhà trống), Plon, 1997.