Nhị thập tứ hiếu

1- Khai-mào

Người tai mắt đứng trong trời đất,
Ai là không cha mẹ sinh-thành,
Gương treo đất nghĩa trời kinh ,
Ở sao cho xứng chút tình làm con.
Chữ hiếu niệm cho tròn một tiết,
Thì suy ra trăm nết đều nên ,
Chẳng xem thuở trước thánh-hiền,
Thảo hai-mươi-bốn, thơm nghìn muôn thu.
2- Vua Đại Thuấn nhà Ngu

Đức đại thánh họ Ngu, vua Thuấn >
Buổi tiềm long gặp vận hàn-vi,
Tuổi xanh khuất bóng từ-vi
Cha là Cổ Tẩu người thì ương-ương.
Mẹ ghẻ lại tính càng khe-khắt
Em Tượng thêm rất mực kiêu-ngoa,
Một mình thuận cả vừa ba
Trên chiều cha mẹ, dưới hòa cùng em.
Trăm cay-đắng, một niềm ngon-ngọt,
Dẫu tử sinh không chút biến dời,
Xót tình khóc tối, kêu mai,
Xui lòng ghen-ghét hóa vui dần dần.
Trời cao thẳm mấy lần cũng đến,
Vật vô tri cũng mến nọ người,
Mấy phen non Lịch pha-phôi,
Cỏ, chim vì nhặt, ruộng, voi vì cày.
Tiếng hiếu hữu xa bay bệ thánh,
Mệnh Trung-dung trao chánh nhường ngôi,
Cầm-thi, xiêm áo thảnh-thơi
Một nhà đầm-ấm, muôn đời ngợi-khen.

3- Vua Văn- đế nhà Hán.

Kìa Văn-đế vua hiền Hán-đại,
Vâng ấn phong ngoài cõi Phiên-vương
Quên mình chức cả quyền sang,
Phụng thờ Bạc-hậu lễ thường chẳng sai.
Đến khi nối ngôi trời trị nước,
Vẫn lòng này săng-sắc như xưa,
Mẹ khi ngại gió kinh mưa,
Ba năm hầu-hạ, thường như một ngày.
Mắt chong bóng dám sai giấc ngủ,
Áo luôn mình dám sổ đai lưng,
Thuốc thang mắt xét, tay nâng,
Có tường trong miệng, mới dâng dưới màn,
Tiếng nhân-hiếu đồn vang thiên-hạ,
Thói thuần-lương hóa cả lê-nguyên.
Hai mươi năm lẻ kiền-khôn,
Đả sau Tam-Đại, hãy còn Thành, Khang.
Ấy hay vị đế-vương đời trước,
Chữ hiếu đành đá tạc vàng in,
Còn ra sĩ, thứ, đấng hiền,
Đến xem mấy kẻ tiếng truyền đến nay.

4- Tăng-tử đời nhà Chu

Đời Chu-mạt có thầy Tăng-tử,
Thờ mẹ cha thời giữ chí thành,
Bữa thường rượu thịt ngon-lành
Cho ai, vâng cứ đinh-ninh chẳng rời >
Nhà bần-bạc thường vui hái củi,
Quãng mù xanh thui-thủi non sâu,
Mẹ ngồi tựa bóng cửa sau,
Nhân khi khách đến, trông mau con về.
Rối trong dạ nhân khi cùng-túng,
Cắn ngón tay cho động lòng con,
Trông non bỗng chốc bồn-chồn,
Quặn đau khúc ruột, bước dồn gót chân,
Quỳ dưới gối ghé gần thưa hỏi,
Lắng bên tai nghe giãi nguồn cơn,
Cho hay từ, hiếu, tương-quan,
Non Đồng khi lở, khôn hàn tiếng chuông.

5- Mẫn Tử-khiên nhà Chu

Thầy Mẫn-tử rất đường hiếu-nghĩa,
Xót nhà huyên quạnh-quẽ đã lâu,
Thờ cha sớm viếng, khuya hầu
Chẳng may gặp phải mẹ sau nồng-nàn,
Trời đương tiết đông-hàn lạnh-lẽo,
Hai em thời
kép áo dày bông,
Chẳng thương chút phận long-đong,
Hoa lau nỡ để lạnh-lùng một thân.
Khi cha dạo theo chân xe đẩy,
Rét căm-căm nên xảy rời tay,
Cha nhìn ngẫm-nghĩ mới hay,
Nghiến răng rắp cắt đứt giây xướng tuỳ,
Gạt nước mắt, chân quì miệng gửi :
"Lạy cha, xin xét lại nguồn cơn,
"Mẹ còn chịu một thân đơn
"Mẹ đi, luống để cơ-hàn cả ba."
Cha trông xuống cũng sa giọt tủi,
Mẹ nghe lời cũng đổi lòng xưa.
Cho hay
hiếu cảm nên từ,
Thấm lâu như đá cũng rừ lọ ai ?

| |
Chú thích: