Thoắt thôi về chốn tĩnh-đường,
Buồn trông phong-cảnh tha-hương ngập-ngừng.
Kìa thì bụt, nọ thì tăng,
Chẳng hay từ-mẫu lạc chừng nơi nao ?
Than rằng: "Đội đức cù lao,
"Bể sâu mấy mấy trượng ? Trời cao mấy trùng ?
"Nếu sinh là kiếp đàn ông,
220.- "Thời tìm nước thẳm, non bồng quản chi ?
"Bởi sinh là phận nữ-nhi,
"Nghĩ thì càng tủi, nhớ thì luống thương.
"Từ-ô chim-chóc vật thường,
Còn mong kiếm chốn tìm đường trả ơn.
"Mưa sầu gió thảm từng cơn,
"Để ai chịu phận thờn-bơn một bề !
"Biết ai giãi tấm lòng quê ?
"Có chăng đợi đức từ-bi chuyển vần."
Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần,
230.- Chạnh lòng xảy nhớ Châu, Trần nghĩa xưa.
Giãi-dầu kể mấy nắng mưa,
Thề phai, nguyền nhạt, bây giờ biết đâu ?
Quạt này ai để cho nhau,
Phong phong, mở mở giãi sầu làm khuây.
Chốn Lam-kiều cách nước mây,
Bùi-Hàng kia dễ biết đây nẻo nào ?
Non Thiên-thai mấy trượng cao,
Lưu-Lang chưa dễ tìm vào tới nơi.
Đã đành góc bể bên trời,
240.- Lân-la ngày bạc quá vời xuân-xanh.
Một mình những tủi duyên mình,
Nén hương biếng thắp, quyển kinh ngại nhìn.
Phải khi sư-phụ bước lên,
Dè chừng mới hỏi rằng "duyên-cớ nào ?
"Ra chiều ủ liễu phai đào,
"Hạt châu lai-láng, quyển bào chưa phai.
"Hay là nhớ chốn Chương-đài,
"Xạ lan mùi cũ, hán hài thói xưa.
"Hay là nhớ nỗi mây mưa,
250.- "Ước ao nghĩa phượng, đợi chờ bạn loan ?
"Hay là tiếc thuở hồng-nhan,
"Sợ phai thức phấn, e tàn nhị hoa ?
"Hay là khổ-hạnh tương cà,
"Hư thân mâm ngọc đũa ngà bấy nay ?"
Diệu-Thường ren-rén thưa bày :
"Nỗi tôi, tôi bạch, lạy thầy, thầy thương.
"Loạn-ly từ cách gia-hương,
"Trông ơn thầy đã rộng đường bao-dong.
"Tưởng câu sắc sắc không không,
260.- "Dám đâu còn bận chút lòng gió trăng !
"Chỉn e từ-mẫu lạc chừng,
"Một mình chẳng biết suối rừng là đâu.
"Mẹ già bóng ngả cành dâu,
"Phòng khi sốt mặt, váng đầu cậy ai.
"Đã lo cầu khẩn bụt trời,
"Nào khoa cứu khổ, nào bài độ sinh.
"Càng trông càng vắng phong thanh,
"Lẽ nào hai chữ ân tình chẳng thương."
Thầy rằng: "Bĩ thái khôn lường,
270.- "Trăng thường tròn khuyết, nước thường đầy vơi!
"Nhịn sầu mà gượng làm tươi,
"Kẻo khi nguyệt mỉa, hoa cười chẳng hay.
"Hãy tu vẹn quả phúc này,
"Đừng long tiết ngọc, chớ lay cơ huyền.
"Kià Điạ tạng, nọ Mục-Liên,
"Độ thân dẫu xuống cửu-tuyền cũng an.
"Lọ là người ở trần-gian,
"Đừng lo -lắng nữa, chớ phàn nàn chi.
"Ở đây nhờ đức Từ-bi,
280.- Mẹ con ắt cũng có khi lại gần."
Nàng nghe thầy dạy ân-cần,
Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu.
Muối dưa đắp-đổi ít nhiều,
Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình,
Vầng trăng bạc, ngọn đèn xanh,
Dâng hương ngũ-vị, tụng kinh tam-thừa
Nhân hẩy gió, đức nhuần mưa,
Vượn dâng quả cúng, chim đưa hoa mừng.
Đàn thông, phách suối vang lừng,
290.- Cá khe lắng kệ, chim rừng nghe kinh.
Mây phủ tán, liễu che mành,
Nước non Thiên-trúc, cung đình Bồng-lai.
Hoa thơm cỏ lạ đòi nơi,
Đã hay rằng cảnh có người mới yêu !
Vãng lai quan-khách dập-dìu,
Kẻ lên lễ phật, người vào bạch sư.
Nơi viết kệ, chốn đề thơ,
Mắt trần càng nhộn, lòng từ càng thanh.
Rửa không thế-tục thường tình,
300.- Một bình-tĩnh-thủy, một cành dương-chi.
Nhữ mong nương náu qua thì,
Biết đâu cơ-tạo, chắc gì nhân-duyên.
Ai ngờ một tấm tự-nhiên,
Có khi cũng động đến trên chuyển vần.
Hai phương chỉ Tấn, tơ Tần,
Bỗng đâu như giắt dần-dần lại cho.
Phan-sinh từ ở Thành-đô,
Lần lần nắng hạ, mưa thu từng ngày.
Nhớ song thân, ngậm-ngùi thay,
310.- Nhớ hương-thôn, cách nước mây mấy từng.
Nhớ xưa còn nhỏ nghe rằng :
Có cô tu ở Kim-lăng cũng gần.
Tức thì trỏ nẻo dời chân,
Thênh-thênh bãi bạc, lần lần dậm xanh.
Mới hay sơn thủy hữu tình,
Cỏ hoa đón khách, én anh đưa người.
Cửa chùa phơi-phới gần nơi,
Nhác trông cảnh bụt bầu trời lạ sao !
Chập-chồng quán thấp, lầu cao,
320.-Hương nghi-ngút tỏa, hoa ngào-ngạt bay.
Chuông rền, mõ ruổi, khánh lay,
Thông già điểm trống, trúc gầy khua sênh.
Thầy đương kinh-giáo tập-tành,
Diệu-Thường đứng tựa bên mành câu-lơn.
Nhác trông ra mái tam-quan,
Thấy chàng niên-thiếu lạc ngàn ngẩn-ngơ.
Lạ con mắt, hãy còn ngờ,
Thác mành-mành, hỏi: "Khách thơ quê nào ?
"Vả con người cửa mận đào,
330.- "Việc gì mà khéo tìm vào non sâu ?"
Sinh nghe khúm núm dưới lầu,
Gửi rằng: "Con cháu sang hầu sư cô.
"Trình tên tuổi, bạch duyên-do,
"Giở nông-nỗi trước, kể trò-chuyện sau."
Sư nghe lặng ngắm giờ lâu,
Quyển vàng sẽ gác, hạt châu sụt-sùi.
Dạy rằng: "Hãy bước vào ngồi,
"Thế mà cô nghĩ là ai, vô tình !
"Mới thăm hỏi sự nhà mình,
340.- Anh thong-thả, chị bình-ninh, cô mừng.
"Khen ai tỏ nẻo đưa chừng,
"Cho con lặn suối, băng rừng tới đây !
"Đây tuy thú mọn cỏ cây,
"Thanh nhàn cứ ở lâu ngày cũng quen.
"Gần cô cho tiện sách đèn,
"Lọ là khuất-nhiễu chốn phiền-hoa chi !
"Cũng đừng áy-náy lòng quê,
"Bao giờ áo gấm mặc về mới cam !
"Ngựa hồng, đai bạc, áo lam,
350.- "Trời cho, vả có chí làm thì nên !
"Phải khi hương lửa bén duyên,
"Bõ công tuổi-tác, rạng nền tổ-tông."
Dạy thôi mới dặn Hương-Công,
Đưa chàng về mái tây phòng nghỉ chân.
Trải xem thú lạ chiều xuân,
Hoa kề cửa động, đá ngăn vách chiền.
Người thành-thị, kẻ lâm-tuyền,
Đòi phen thấy cảnh, đòi phen chạnh niềm.
Tưởng người nương cánh hé rèm,
360.- Gọi Hương-Công mới dò xem sự lòng :
"Ấy ai tầm thước trẻ-trung,
"Chực hầu sư-phụ đứng trong giảng-đường.
Bấy giờ e-lệ chưa tường,
"Lâu lâu lại thấy thoáng gương ả hằng ?"
Thấy lời, Hương mới thưa rằng:
"Người đâu chẳng biết, lạc chừng tới đây.
"Vả khi lỡ bước đường mây,
"Nàng Trương đưa lại chốn này qui-y.
"Khách đà về đạo từ-bi,
370.- "Nhìn làm chi ? hỏi làm chi ? hỡi chàng !
"Già nua thưa-thốt sỗ-sàng,
"Thôi thôi xin xuống tĩnh-đường hầu cô."
Nghe lời sinh mới thẹn-thò,
Gượng thưa rằng: "Hãy xét cho, chớ cười.
"Lạ lùng nên mới hỏi chơi,
"Há rằng đã tận tình ai ru mà !"
Vãi Hương từ trở lại nhà,
Một mình chàng chốn lầu hoa, lại càng.
Thôi thắc-thỏm, lại mơ-màng,
380.- Đèn xanh một ngọn, quyển vàng ba con,
Biết ai mà được nỉ-non,
Tối than trăng chị, ngày đon gió dì.
Niềm riêng khôn chút tả đề,
Hoàng-oanh hót nhớ, tử-qui kêu sầu.
Bồi-hồi tháng trọn, ngày thâu,
Trong lòng đã vậy, trên đầu chưa hay.
tĩnh-đường: nhà im-lặng, nơi tu-hành. Hay là tĩnh đường : nơi trong sạch.
tha-hương: Làng khác, quê người
từ-mẫu: mẹ hiền, mẹ đẻ.
cù lao: khó nhọc, bởi câu ai ai phụ mẫu, sinh ngã cù lao. thương thay cha mẹ, sinh ra ta khó nhọc.
nước thẳm, non bồng: chỉ về cõi tiên xa cách với trần-thế.
Từ-ô: con quạ hiền, giống chim có hiếu, thường đi kiếm mồi về mớm trả mẹ.
chịu phận thờn-bơn một bề: Tục ngữ có câu "Thờn bơn chịu ép một bề". Câu này ý nói đối với tình cảnh ấy, dễ ai mà ngồi yên được. Thờn-bơn : cá lưỡi trâu.
từ-bi: Hiền lành, thương xót. Biểu hiệu của đức Phật từ-bi lân mẫn chúng sinh.
Châu, Trần: Hai thôn ở bên Tàu, đời đời thông hôn với nhau.
Quạt này ai để cho nhau: Quạt này là cái quạt của nhà họ Phan trao cho họ Trần làm vật đính hôn.
Lam-kiều: Lam-Kiều : tên một cái cầu ở Trường-an(bên Tàu). Bùi-Hàng người đời Đường, hỏng thi, đi chơi phiếm, gặp tiên nữ đưa cho bài thơ rằng:
Nhất ẩm quỳnh tương bách cảm sinh,
Nguyên sương đảo tận kiến Vân-Anh,
Lam-kiều tiện thị thần tiên quật,
Hà tất khi khu thướng ngọc kinh.
Nghĩa là :
Một nhắp rượu quỳnh tương thì trăm mối cảm tưởng sinh ra, song có tán hết thuốc nguyên sương ( thuốc trắng như sương ) mới thấy Vân-Anh . Cầu Lam chính là chỗ thần tiên ở, cần gì phải vất vả lên ngọc kinh ). Sau Bùi-Hàng qua Lam-kiều, khát nước vào hàng một bà già, bà gọi con gái là Vân-Anh lấy nước cho uống. Thấy đẹp, Bùi-Hàng mượn mối đến hỏi làm vợ. Bà già thách cưới có chày và cối giã bằng ngọc, dùng làm sính lễ để tán thuốc, mới lấy được Vân-Anh. Kết cục vợ chồng đều được lên cõi tiên. - Rút trong " Thái-bình quảng-ký ".
Bùi-Hàng: Xem chú thích số 11.
Thiên-thai: núi thuộc tỉnh Triết-giang bên Tàu.
Lưu-Lang: tức Lưu-thần đời Hán, ngày tết Đoan-ngọ, cùng Nguyễn-Triệu vào Thiên-thai hái thuốc gặp tiên, chung sống trong nửa năm, khi trở về đã đến đời thứ 7.
Đã đành góc bể bên trời: góc bể bên trời, bởi chữ hải giác thiên nhai.
Lân-la ngày bạc quá vời xuân-xanh: ngày bạc bởi chữ bạch nhật, xuân xanh bởi chữ thanh xuân, nói theo ý trong câu thơ bạch nhật mạc nhàn quá, thanh xuân bất tái lai, ngày bạc đừng bỏ qua, xuân xanh không trở lại.
sư-phụ: ở đây chỉ vào người sư-trưởng trong chùa : Sư thầy.
Chương-đài: tên một cung dựng từ đời Tần. Tiếng thông xưng các nơi cung điện lâu-đài đời Chiến-quốc. Đây nói về nơi đài-các lịch-sự.
sắc sắc không không: tiếng nhà Phật. Sắc, nói về hết thảy những cái có hình-tượng hiện rõ ra ngoài. Không là hư-không chẳng có gì cả. Người ta đã dịch bốn chữ sắc sắc không không thành câu lục bát:
Có thì có tự mảy may,
không thì cả thế-gian này cũng không.
cành dâu: do chữ tang du. Khi mặt trời sắp lặn, bóng nắng còn sót lại trên cành dâu, người ta quen dùng chữ tang du chỉ về cảnh già. Câu này cũng theo ý ấy, nói mẹ già chẳng biết sống được bao nhiêu nữa, như bóng mặt trời đã ngả sắp lặn về tây.
cứu khổ, nào bài độ sinh.: Cứu khổ, độ sinh là những khoa phạm của nhà Phật nói về cứu độ chúng sinh.
Điạ tạng: danh-hiệu một vị Bồ-Tát, phát thệ độ hết 6 đạo chúng sinh mới mong thành Phật.
Mục-Liên: cũng gọi là Mục Kiêu Liên, đệ-tử nhà Phật, có phép thần thông, từng vào địa ngục để cứu mẹ. Vì đó thế-tục mới có hội " vu lan bồn " : Lấy chậu chứa bách vị cúng dâng chư phật, để giải cái tai ách treo ngược cho chúng sinh. Hội này cử hành vào tiết Trung-nguyên tháng 7, tức là ngày Mục-Liên xuống địa-ngục cứu mẹ. Vì mẹ Mục-Liên ở địa-ngục, hễ ăn thứ gì vào miệng thì lập tức cháy thành lửa, nên nhà Phật làm thế để độ nạn.
Độ thân: cứu độ dâng thân ( cha mẹ ).
cửu-tuyền: nơi chín suối, dưới âm-phủ .
Tát vơi bể Sở, khơi dần sông Nghiêu: cũng như bể khổ sông mê, nói bóng về những nỗi phiền-não của loài người bị chứa chất trong tâm thân.
Sớm khua mõ cá, tối khiêu chuông kình: mõ chế hình con cá, chuông chạm hình cá Kình ( thứ cá to ngoài bể ).
ngũ-vị: năm mùi thơm.
tam-thừa: ba cỗ xe nghĩa là chuyên chở, tiếng nhà Phật, tam-thừa là : Bồ-tát-thừa, tích-chi-thừa, Thanh-văn-thừa do các nhà tu năng-lực khác nhau, nên phân làm 3 hạng ấy.
Vượn dâng quả cúng, chim đưa hoa mừng : Loài vượn loài chim dâng quả dâng hoa cúng Phật.
Đàn thông, phách suối vang lừng: Cây thông lá reo có dịp-dàng tựa như đàn gảy, suối nước chảy róc rách như tiếng gõ phách, nên gọi là đàn thông phách suối.
Thiên-trúc: là nước Phật.
Bồng-lai.: là cõi tiên.
Đã hay rằng cảnh có người mới yêu: Câu này ý nói đã hay là có cảnh đẹp, nhưng có người thì cảnh mới thêm đáng yêu.
Một bình-tĩnh-thủy, một cành dương-chi: tĩnh-thuỷ : nước trong sạch. Dương-chi : cành dương, đều lấy tích nhà Phật : Phật-đồ-Trừng người nước Thiên-trúc, có con bị bạo tử ( chết tươi ), lấy cành dương sấp nước vẩy vào mặt lại sống lại.( theo sách Pháp-Uyển châu lâm ).
một tấm tự-nhiên: là tấm lòng.
Thành-đô: thuộc tỉnh Tứ-Xuyên bên Tàu.
Kim-lăng: xem chú thích ở trên.
cửa mận đào: mận đào do chữ đào lý , cửa mận đào là nơi quyền-quí sang-trọng : ( đào, lý công-môn )
áo gấm mặc về: do câu mã thượng cẩm y hồi; ý nói thi đỗ cỡi ngựa mặc áo gấm vinh-qui.
Ngựa hồng, đai bạc, áo lam: Cỡi ngựa hồng, đeo đai bạc, mặc áo lam đều là những nghi-vệ, phẩm-phục sau khi đã thi đỗ.
Hương-Công: Tên một bà vãi ở chùa.
giảng-đường: Nhà giảng kinh, nhà dạy học.
tĩnh-đường: Xem chú thích ở trên.
Tối than trăng chị, ngày đon gió dì: Trăng chị bởi chữ nguyệt tỷ, chỉ nàng tiên trong cung trăng. Thơ của Lý-Thương-Ẩn : nguyệt tỷ tằng phùng hạ thái thiềm : chị nguyệt từng gặp tới cung trăng. Đon : Hỏi đon hỏi ren.
Hoàng-oanh hót nhớ, tử-qui kêu sầu: Hoàng-oanh là chim vàng anh, tiếng hót véo von nghe rất vui tai. Tử-qui là chim quốc, tiếng kêu khắc-khoải nghe ra sầu thảm. Câu này ý nói cảnh buồn. Và còn tả cảnh cuối xuân ( oanh ) sang hạ ( tử-qui ) .