Bỗng may may khéo là may,
Nhác trông ra mái lầu tây thấy nàng.
Thẩn-thơ trước dãy hành-lang,
390.- Vin cành biếc, hái hoa vàng làm thinh.
Xa xa phảng-phất dạng hình,
Đức Quan-Âm đã giáng-sinh bao giờ !
Vội-vàng làm cách bơ-lơ,
Đến gần ướm hỏi khách thơ một lời :
"Kể từ đến cảnh bồng-lai,
"May thay đã trộm thấy người tiên-cung.
"Mới hay hai chữ sắc, không,
"Chẳng tơ mà dễ rối lòng trần-duyên.
"Ba sinh ước vẹn mười nguyền,
400.- "Chiêm-bao luẩn-quẩn ở bên giảng đình.
"Sư còn lân-mẫn chúng-sinh,
"Xin thương đến tấm lòng thành với nao !"
Bỗng nghe tiếng lạ-lùng sao,
Trái tai khôn biết lẽ nào dám thưa.
Nghĩ mình ở đám muối dưa,
Há nên tìm tiếng đong-đưa cùng người.
Làm thinh thà chịu kém lời,
Thềm hoa lẩn bóng, phòng trai trở giày,
Vội vàng khép bức rèm mây,
410.- Ngoài hiên còn chút hương bay với chàng.
Một mình lui tới bẽ-bàng,
Khôn về năn-nỉ, dễ đường nhắn-nhe !
Đeo sầu chàng trở ra về,
Xem chiều thèn-thẹn, e-e nực cười.
Trách người một, trách ta mười !
Bởi ta sàm-sỡ nên người dẩy-dun.
Còn trời, còn nước, còn non,
Còn trăng, còn gió hãy còn đó đây.
Trăng trăng, gió gió, mây mây,
420.- Biết là giở nỗi nước này cùng ai !
Chờ khi vắng-vẻ hiên mai
Tìm Hương mà lại giãi-bày cùng Hương:
"Rằng đây là khách tầm-thường,
"Đem thân đài-các mà nương cửa chiền.
"Một là an phận chờ duyên ?
"Hai là thong-thả sách đèn cũng vui.
"Cho nên dưa muối phải mùi,
"Những say mùi đạo mà nguôi nỗi nhà.
"Sớm trưa ai kẻ biết ra,
430.- "Đã quen làm nũng với già bấy lâu.
"Nghĩa sâu đành trả ơn sâu,
"Bây giờ phải gỡ mối sầu cho xong.
"Kià ngọc-nữ, nọ kim-đồng,
"Phật-bà chẳng xét thấu lòng ấy chăng ?
"Cửa Từ phương-tiện đâu bằng,
"Kim-thằng xin đổi xích thằng này cho.
"Ở đây về cảnh nhà chùa,
"Lẽ đâu có dám chuyện-trò trăng hoa.
"Nhưng vì duyên-kiếp thế mà,
440.- "Đẫu làm sao cũng cậy già giúp nao!"
Lặng nghe lời nói thấp cao,
Gửi rằng: "Già biết làm sao sự này !
"Nương mình cửa bụt bấy chầy,
"Non ngăn thói tục, gió bay niềm trần.
"Hương đèn khuya sớm độ thân,
"Biết đâu quán Sở, lầu Tần viển-vông.
"Nghe lời cũng trộm xét lòng,
"Tu-hành chẳng lẽ lộn vòng gió trăng.
"Vả nàng cùng bạn thiền-tăng,
450.- "Ra vào sượng mặt, nói năng ngại điều.
"Một niềm vàng đá nâng-niu,
"Bây giờ sao nỡ giật-gìu mưa mây.
"Huống chi những tiếng thày-lay,
"Tuổi này đã trót mũ này che tai.
"Đa-mang chẳng dám chịu lời,
"Mặc người Tần Tấn, mặc ngưòi Trần Châu."
Chàng nghe ngẫm nghĩ giờ lâu,
Tưởng lời Hương nói ra màu đẩy-đưa.
Hai hàng lã-chã nhường mưa:
460.- "Biết đem lòng ấy bây giờ cậy ai.
"Vì duyên nên phải vật nài,
"Có thương thì xét mà cười thì oan.
"Ba trăng nấn-náthiền-quan,
"Nghĩ quen thuộc ấy mà van-vỉ cùng.
"Nào ngờ ngại tiếng, quản công,
"Nào lòng quảng-đại, nào lòng từ-bi.
"Chẳng yêu, chẳng xót, chẳng vì,
"Lại còn bịn rịn làm chi cảnh này ?
"Bụt trời xin chứng lòng ngay,
470.- "Duyên kia dù rủi dù may tại già."
Nghe lời năn-nỉ thiết-tha,
Ngọt-ngào đầu lưỡi, mặn-mà lỗ tai :
"Vâng ra thì tiếng để đời,
"Chẳng vâng thì bỏ lòng người biết bao !
"Tận-từ dám tiếc công nào,
"Còn e lòng khách động đào khứng chăng!
"Bây giờ làm khách thiền-tăng,
"Say-sưa mùi đạo, dửng dưng bụi hồng.
"Lệ chi hoa chẳng chiều ong,
480.- "Uổng công tuổi-tác, thẹn lòng văn-nhân."
Chàng rằng: "Già hãy ân-cần,
"Đàn này tai ấy dần-dần cũng êm.
"Ai hay rằng chẳngcải-kim,
"Đã nơi gian-gíu nên tìm tới đây.
"Hãy về gìn-giặt cho hay,
"Dẫu làm sao quả phúc này cũng nên."
Nghe chàng gắn-bó cần-quyền,
Vâng lời Hương mới về bêntĩnh-đường,
Canh khuya nguyệt gác cành sương,
490.- Nằn-nì thử ướm xem nường ra sao.
Rằng đây cảnh quạnh, non cao,
"Xưa nay biết mận quen đào là ai.
"Phải khi qua chốnthư trai,
"Thấy chàng khắc khoải một lời mà thương.
"Lân-la bỗng giở sự nường,
"Mấy lời thì bấy nhiêu hàng hạt châu.
"Xin người, đã bạch gót đầu,
"Rừng thiền xin chớ những màu én anh.
"Càng van càng một đinh-ninh,
500.- "Rằng duyên, rằng nợ, rằng tình, một hai.
"Nể lời ta chót chịu lời,
"Chiều ai hay chẳng chiều ai, mặc nàng."
Lời đâu thêm động lòng vàng,
Trách ai sao khéo đặt đàng cho nên :
"Gập-ghềnh lỡ bước thuyền-quyên,
"Đem thân bồ-liễu nương miền tùng-lâm.
"Đã mừng khuất nẻo tiếng tăm,
"Bướm ong đâu lại ầm-ầm bên tai.
"Già vâng, tiểu gửi lại người,
510.- "Chốn này chẳng khá dạy lời ong ve,
"Kiếp tu đã nguyện bồ-đề,
"Lòng son bảy mối, tóc thề mười phương.
"Một đèn một sách, một hương,
"Dám còn để mối tơ vương bên lòng .
"Vả người là đấng thư-trung
"Tấc mây đâu nỡ để lồng gương thu.
"Bao-dung xin hãy xét cho,
"Từ rày những tiếng nhỏ to gác ngoài."
Xem nàng vàng đá chẳng dời,
520.- Vội-vàng lại đến thư-trai trình chàng :
"Đá vàng uyển-chuyển trăm đường,
"Khăng khăng khóa ngọc, then vàng chẳng long.
"Ai ngờ con trẻ lạ lùng !
"Kiên gan có lẽ ép lòng làm sao.
Chàng rằng: "Nghe rõ tiêu-hao,
"Như nung dạ sắt, như bào lòng son.
"Đem mình làm khách thiền-môn,
"Gió lay trướng ngọc, tuyết mòn án nghiên.
"Vẻ chi hai chữ tình duyên,
530.- "Nhẹ danh tài-tử, nặng nguyền giai-nhân.
"Đem mình van thiết mấy lần,
"Mười phần mà chẳng một phần ủ-ê.
"Ai hay phép Phật cả nề,
"Ở thì cũng thẹn, về thì chẳng xong.
"Âu là già hãy giúp công,
"Lại lần này nữa xem lòng ra sao ?
"Dặn rằng đã quyết chí cao,
"Nợ lòng để đến kiếp nào trả cho ?
"Chẳng thì ra trước cửa chùa,
540.- "Mà nghe khách niệm nam-mô một lời.
"Đoạn rồi nam bắc đôi nơi,
"Nỗi niềm phó mặc bụt trời chứng minh."
Nghe lời chàng, đã biết tình,
Trở về Hương mới đinh-ninh gót đầu.
Rằng: "Xin nửa khắc đến hầu,
"Đợi nàng một tiếng giã nhau mà về."
Thấy người đeo-đẳng mọi bề,
Ngập ngừng trước mặt, liễu e cúi mày.
Van rằng: "Đừng nỗi bèo mây,
550.- "Phận này ngỡ được chốn này là yên,
"Ai ngờ quả kiếp xui nên,
"Một thân thiếu nữ truân-chuyên mấy lần.
"Đã nhờ tình thực ân-cần,
"Chẳng thương mà dạy nợ-nần trăng hoa.
"Phỏng khi sư-phụ biết ra,
"Người là thân-thích, ta là ngược xuôi,
"Gió bay lời thế xa-xôi,
"Thì ta hồ dễ đứng ngồi dược đây !
"Âu là chịu bạc cùng thầy,
560.- "Liệu đường mà giã cảnh này cho xong.
"Phận bèo bao quản long-đong,
"Thà rằng lánh trước hơn rằng lụy sau."
Thấy chiều lan thảm, huệ sầu,
Xót nàng, Hương mới ra màu van-khuyên:
"Lạy nao, xin chớ vội phiền,
"Trót đà lỡ miệng, rày xin kín lòng.
"Miễn nàng tuyết sạch giá trong,
"Vàng không thẹn lửa, sen không nhuốm bùn.
"Quả tu ve-vuốt cho tròn,
570.- "Bỗng mà ruồng-rẫy nuóc non sao đành !
"Ba trăng tiếng kệ câu kinh,
"Bạch-viên sao nỡ phụ tình Huyền-Trang."
Nàng nghe Hương nói nể-nang,
Kấp sầu lại mở quyển vàng làm khuây.
Xăm-xăm Hương một lòng ngay,
Lại sang đến chốn mọi ngày đinh ninh.
Rằng: "Chàng cửa tướng nhà khanh,
"Lứa đôi há hiếm cầm lành đưa duyên.
"Khuyên người đèn sách bút nghiên,
580.- "Sự nàng xin chớ cần-quyền nữa chi.
"Nếu nàng phải bước ra đi,
"Nữa oan lòng khách tội thì tại ai ?"
Bỗng không thấy thốt hãi người,
Van rằng: "Chẳng dám ép-nài nữa đâu !
"Xin đừng để tiếng cho nhau,
"Chẳng thì non thẳm, vực sâu cũng tìm.
"Cậy già về giữ cho im,
"Dám còn nhắn cá gửi chim nữa nào !
Chàng từ thưa-thớt âm-hao,
590.- Tới lui ngần ngại, ra vào dở-dang.
Gió từ hây-hẩy đưa hương,
Lạnh lùng áng tuyết đoạn trường đòi nau !
Trăng thiền vằng-vặc in lầu,
Lâm-râm đèn hạnh gượng sầu thiu-thiu.
Tiếng chuông, tiếng cảnh, tiếng tin,
Sách nhìn biếng đọc, cầm treo biếng đàn.
Bấy nay nương-náu thiền-quan,
Muối dưa nhạt nhẽo, sương hàn pha-phôi.
Lại thêm sầu não đứng ngồi,
600.- Đá kia cũng đổ bồ-hôi lọ người !
Bệnh tương-tư cũng nực cười,
Dễ phương ngũ-tích, dễ bài bát-trân.
Bùa nào giảm, thuốc nào dằn,
Dược-sư ngán nỗi, Lão quân khôn điều.
Có chăng liên-nhục, liên-kiều.
Dùng thang đồng-nữ mới tiêu bệng chàng.
Lòng cô còn rộn trăm đường,
Mười phương đã khắp, nén hương đã tàn (?).
Bói thì ra quẻ Phong-san,
610.- Động hào thiếu-nữ ai bàn cho ra.
Có chăng ta biết sự ta,
Diệu-Thường là một, vãi già là hai.
Vì sư vả cũng nể người,
Nàng theo Hương đến phòng trai thăm chàng.
Nghiêng mình hé bức rèm sương,
Chiều thanh khép nép, tiếng vàng khoan-thai :
"Trộm nghe sương tuyết hơi hơi,
"Thuốc xơi giảm mấy, cơm xơi thế nào ?
"Lạy trời cho mát-mẻ nao,
620.- "Kẻo sư tuổi-tác ra vào băn-khoăn."
Bên tai nghe tiếng nàng gần.
Mười phần phiền-não, chín phần đổ sông.
Vội-vàng tay gạt đôi giòng,
Bạch rằng: "Đã đội ơn lòng đến đây.
"Bệnh sao cơn tỉnh cơn say,
"Mới rồi thì thế lúc này thì không.
"Như lúc này thế đã xong,
"Rồi ra nào biết được thong-thả này !
"Vì ai trời nhẽ có hay,
630.- "Độ-trì cho họa là may chút nào."
Hạt châu thánh-thót quyển bào,
Xem hoa dường võ, xem đào dường phai.
Chiều lòng nàng phải lựa lời,
Rằng: "Người thành-kính thì trời chứng-tri,
"Hãy xin hỉ-xả từ-bi,
"Cơn này đừng thắc-mắc chi thêm càng."
Sinh đương nấu sắt nung vàng,
Bỗng nghe như nước cành dương tưới nhuần.
Thảnh-thơi thư-sảng tinh-thần,
640.- Thiều-quang đem lại, phong-trần giũ bay.
Vừa mong giở nỗi niềm tây,
Ngoài hiên nghe xịch tiếng giày xa xa.
Giã sinh nàng trở gót hoa,
Khơi mành-mành thấy sư già xuống thăm.
Thấy chàng tựa án nâng cầm,
Nhẹ-nhàng sư mới bình tâm trở về.
hành-lang: dãy nhà ngang chạy dài ở các nơi cung-điện đền-miếu nào.
Quan-Âm: tức Quan-thế-âm, danh hiệu đức Phật, vì đời Đường kiêng tên vua Thái-Tôn, bỏ bớt một chữ Thế, chỉ gọi có hai chữ Quan-âm. Tượng Phật Quan-Âm tô theo hình đàn-bà, diện-mạo đẹp-đẽ lộng lẫy. Đây nói người đẹp tưởng như đức Quan-Âm giáng-sinh, chỏ Diệu-Thường.
bồng-lai: đã chú thích.
sắc, không: đã chú thích.
giảng đình: cũng như giảng-đường
lân-mẫn : thương xót.
đài-các: đây nói về nhà quan tư sang-trọng khác hẳn bình-dân.
Kià ngọc-nữ, nọ kim-đồng: Kim-đồng, Ngọc-nữ tức thiện tài, lượng nữ là đệ-tử trai và gái theo hầu đức Phật.
Kim-thằng: dây vàng nhà Phật buộc kinh.
xích thằng: dây đỏ của nguyệt-lão xe duyên vợ chồng cho thế-gian, lấy ở tích Vy-Cố.
thiền-tăng: Nhà sư ở chùa, đây nói là cùng bạn sư vãi với nhau .
người Tần Tấn, mặc ngưòi Trần Châu: đã chú thích.
thiền-quan: Cửa nhà chùa.
Say-sưa mùi đạo, dửng dưng bụi hồng: Mùi đạo chỏ về phái xuất gia, bụi hồng chỏ về phái tại gia còn trong đám hồng trần.
Uổng công tuổi-tác, thẹn lòng văn-nhân: Tuổi tác : vãi Hương tự xưng, vì mụ đã có tuổi; van-nhân là chỏ Phan-sinh
cải-kim: do câu : châm năng thập giới cái kim (có từ thạch) hút được hạt cải. Cải-kim hay kim-cải ý nói tính tình hợp nhau.
tĩnh-đường: đã chú-thích.
thư trai<: nhà học, chỗ Phan-sinh ở.
Rừng thiền: do chữ Thiền-lâm tức nhà chùa.
bồ-liễu: giống cỏ cây mềm-yếu, ví bọn nữ-lưu.
tùng-lâm.: nơi tăng-đồ tụ-họp đông đủ, tức cảnh nhà chùa.
bồ-đề: Tiếng Phạn, cũng như nói chính-giác ( biết sự ngay thẳng).
bảy mối: tức thất tình : mừng, giận, thương, vui, yêu, ghét, muốn.
mười phương: do chữ thập phương, kinh Phật gọi đông, tây, nam. bắc, đông-nam, tây-nam, đông-bắc, tây-bắc và trên, dưới là 10 phương, mỗi phương có một Phật.
thư-trung: Cổ thi : Thư-trung hữu nữ nhan như ngọc : trong sách có gái đẹp như ngọc. Chữ thư-trung nơi đây ý nói Phan là bậc học trò giỏi, chịu khó đọc sách khắc có vợ đẹp.
nỗi bèo mây: Đám bèo mặt nước, đám mây trên không đều là vật trôi nổi phút hợp phút tan không nhất định. Đây ví với nông-nỗi của người con gái gặp bước lạc-loài.
Bạch-viên sao nỡ phụ tình Huyền-Trang: Vượn trắng, Huyền-Trang tức Đường-tăng, người Yển-sư, xuất gia từ thuở nhỏ, học khắp các kinh sách nhà Phật, từng đi sang Ngũ Ấn- độ đem về được hơn 650 bộ kinh, cùng đệ-tử dịch được75 bộ, thành 1338 quyển. Phật-giáo ở Trung-quốc thịnh-hành từ đấy. Đường-Tăng có nuôi một con vượn trắng, rất tinh khôn, sau đem dâng Đường-Minh-Hoàng, hồi loạn An-lộc-Sơn tự nhiên mất. Hơn 10 năm sau, một hôm có Viên-phu nhân, vợ Tôn-Khác, Phán-quan ở Nam-Khang đến lễ chùa, cung-tiến một cái vòng bích-ngọc, nói là của chùa xin trả lại. Đường-tăng nhận ra thì là chiếc vòng buộc ở cổ con vượn trắng ngày trước. Ngảnh lại đã thấy phu-nhân hóa thành vượn trắng leo lên cây chuyền vào rừng xanh.
Kấp: lấp. Giập: giẹp.
ngũ-tích, dễ bài bát-trân./a>: Ngũ-tích, Bát-trân : tên hai bài thuốc chữ bệnh thất-tình, nội thương.
Dược-sư ngán nỗi, Lão quân khôn điều: Dược-sư : Thầy thuốc, nhà Phật có kinh Dược-sư, tụng để tiêu tai diên thọ ( trút bỏ tai-nạn cho được sống lâu). Lão-quân tức Thái-thượng lão-quân bậc tối cao của đạo-gia phụng-sự. Câu này ý nói bện khó-khăn, dẫu bực thiêng-liêng cao cả đến đâu cũng khó chữa.
liên-nhục, liên-kiều: tên hai vị thuốc, dùng cho bệnh-nhân uống để khai-uất.
đồng-nữ /a>: tức là vị thuốc "bạch-đồng-nữ", một vị thuốc để chữa bệnh. Chữ đồng nữ đây nói bóng về Diệu-Thường.
Phong-san: Kinh Dịch, một bộ sách bói của đời xưa, có 64 quẻ mỗi quẻ 6 hào hoặc âm hoặc dương, đây đương bệnh mà bói được quẻ phong-san ( gió, núi) thì rõ là động về âm, đông hào thiếu-nữ chẳng còn sai, vì Phong-san là quẻ Tiệm, một quẻ trong 64 quẻ, mà theo thóan-từ (lời đoán) thì chỉ gả con gái là tốt ( nữ qui cát)
Động hào thiếu-nữ : Xem chú-thích số 33 trên đây.
quyển bào: Vạt áo cuốn lại.
Thiều-quang: Đẹp-đẽ, sáng-sủa như cảnh mùa xuân.
phong-trần: gió bụi, nhem nhuốc.