Quan Âm Thị Kính

9- Thị-Kính bị nghi oan là giết chồng

Hôm mai trong chốn thâm khuê,
Kẻ đường kim-chỉ, người nghề bút-nghiên.
Canh khuya bạn với sách đèn,
Mỏi lưng chàng mới tựa bên cạnh nàng.
Phải khi liếc mắt trông chàng,
Thấy râu mọc ngược ở ngang dưới cằm.
Vô tâm xui bỗng gia tâm,
130- Dao con sẵn đấy, mới cầm lên tay.
Vừa giơ sắp tiễn cho tày,
Giật mình chàng đã tỉnh ngay bấy giờ.
Ngán thay sửa dép ruộng dưa,
Dẫu ngay cho chết, cũng ngờ rằng gian.
Thất thần nào kịp hỏi-han,
Một lời la-lối rằng toan giết người,
Song thân nghe tiếng rụng rời,
Rằng : " Sao khuya-khoắt mà lời gớm thay ?"
Thưa rằng: " Giấc bướm vừa say,
!40- "Dao con nàng bỗng cầm tay kề gần.
"Hai vai hộ có quỷ thần,
"Thực hư đôi lẽ xin phân cho tường."

10- Thị-Kính bày tỏ nỗi oan

Nàng vâng thưa hết mọi đường,
Rằng: " Từ gảy khúc loan-hoàng đến nay.
Án kia nâng để ngang mày,
"Sạch trong một tiết, thảo ngay một bề.
"Bởi chàng đèn sách mỏi-mê,
"Gối Ôn Công thủa giấc hòe thiu thiu.
"Thấy râu mọc chút chẳng đều,
150- Cầm dao tiễn để một chiều như nhau.
"Há rằng có phụ tình đâu
"Muôn trông xét đến tình đầu kẻo oan.
"Thác đi phỏng lại sinh hoàn,
"Thì đem lá phổi buồng gan giãi bày".

11- Nhà chồng có ý ngờ Thị-Kính có ngoại tình

Cô, công rằng :" Bảo cho hay,
"Trộm hương, cắp phấn cũng đầy chan-chan.
"Mấy người một ngựa một an,
"Nay Trương, mai Lý thế-gian hiếm gì ?
"Ấy may mà tỉnh ngay đi,
160- "
Đỉnh-đình-đinh nữa có khi còn đời.
"Sự này chớ lấy làm chơi",
Sai người tức khắc đến mời Mãng-Ông.
Trách rằng :" Sự mới lạ lùng,
"Sinh con ai dễ sinh lòng ấy đâu ?
"Sắt cầm bỗng dở-dang nhau,
"Say đâu với đứa trong dâu hẹn-hò.
"Sông kia còn có kẻ dò,
"Lòng người ai dễ mà đo cho cùng.
"Sự này mười mắt đều trông,
170- "Thôi đừng tra hỏi, gạn-gùng nữa chi.
"Nghe anh nào có bụng gì,
"Đem lòng dạy-dỗ sau thì mặc anh."
Lặng nghe kể hết sự tình,
Ngậm-ngùi nghĩ đến con mình mà thương.
Nỗi kia, đoạn nọ ngổn ngang,
Tủi thân khôn đậu hai hàng mưa sa.
Thưa rằng: " Trong nghĩa thông-gia,
"Ơn lòng chiếu-cố thực là hậu thay.
"Hiếm hoi mới một chút này,
180- "Được nương cửa ấy, đã may bội phần,
"Nguyền xưa mong vẹn Tấn Tần,
"Hai non ngảnh lại cho gần cả hai,
"Nào ngờ trẻ mỏ nghe ai,
"Thả chông đường nghĩa, rắc gai lối tình.
" Phù-dung nỡ để lìa cành,
"Giếng thơi nỡ để rơi mình từ đây.
"Nước trong bát, đã rời tay,
"Có còn bốc lại cho đầy được chăng ?
"Mưa tan mây cuốn nửa chừng,
190- "Rộng dung dạy thế, xin vâng lĩnh về.
"Lờn-bơn chịu ép một bề,
"Quản làm sao được kẻ chê người cười".
Gọi con đến trước lạy người,
Lạy lương-nhân đã, sẽ rời chân ra.

12- Thị-Kính từ giã nhà chồng về nhà cha mẹ đẻ

Lòng nàng xiết nỗi xót-xa,
Má đào ủ-dột mặt hoa âu-sầu.
Đến nơi làm lễ khấu đầu,
Lạy công cô đoạn, rồi sau lạy chồng.
Như tuôn giọt lệ ròng ròng,
200- Nín hơi thổn-thức giãi lòng sau xưa.
Kể từ kim-cải duyên ưa,
Giây leo cây bách mong nhờ về sau.
Dù ai phụ-bạc cùng nhau,
Đã thần ba thước trên đầu chứng tri.
Vì đâu phút hợp, phút ly,
Kiếp này đã lỡ, chắc gì kiếp sau.
Tiếc công ô-thước bắc cầu,
Chàng Ngưu, ả Chức gĩa nhau từ rày.

13- Lúc vợ chồng từ-giã nhau

Ngập-ngừng tới lúc chia tay,
210- Đôi bên sùi-sụt, bốn mày châu chan.
Ai làm cho phượng lìa loan,
Đang tay nỡ bẻ phím đàn làm đôi.
Lòng chàng nghĩ lại bồi-hồi,
Trước kia còn giận, sau rồi lại thương,
Duyên này mà đã dở-dang,
Còn nên gảy khúc cầu-hoàng nữa sao ?
Lưu-tô sương gió lọt vào,
Đem mâm mà chứa ngọc giao hẳn đầy,
Phấn kia còn dấu bình này,
220- Hương kia còn dính áo này chưa phai.
Xanh xanh khóm liễu Chương-đài,
Tiếc thay đã để tay ai vin cành.
Muôn thu viếng chốn Giai-thành,
Vẫn còn hai chữ bất bình mang đi.

14- Thị Kính sau khi về nhà cha mẹ đẻ

Nàng đi từ dở bước vu-quy,
Nhân-duyên thôi có nghĩ gì như ai.
Đã oan về chiếc tăng-hài,
Mặt nào mà lại đi hai lần đò.
Trách người sao nỡ dày-vò,
230- Để cho Tiểu Ngọc giận no cũng già.
Nhạn hàng phỏng có đôi ba,
Thà rằng minh mục, hơn là ô danh.
Tủi vì phận liễu một cành,
Liễu đi thì để mối tình cậy ai?
Phòng riêng vò-võ hôm mai,
Trông ngày đằng-đẵng lại dài hơn năm.
Buồng trong giọt ngọc đầm đầm,
Mùi ăn không nhớ, giấc nằm không ngon
Nực cười sự nhỏ cỏn-con,
240- Bằng lông mà nảy nên cồn Thái-sơn.
Vẻ chi chút phận hồng-nhan,
Cành hoa nở muộn thì tàn mà thôi.
Xót thay tóc bạc da mồi,
Vì ai nên nỗi đứng ngồi chẳng khuây.
Dày-vò chút phận thơ ngây,
Sự vui chưa thấy, thấy ngay sự phiền.
Lấy gì báo đáp thung, huyên,
Dễ đem má phấn mà đền trời xanh,
Có khi dốc chí tu-hành,
250- Lánh miền trần tục, nương mình Thiền-môn
Độ trì nhờ đức Thế-Tôn.
Dở dang thủa trước, vuông tròn mai sau.
Nghiêm, từ hưởng phúc về lâu,
Họa đền nghĩa nặng ơn sâu cho bằng.
Thượng-thừa là Phật là Tăng,
Xích-thằng đã ủi, kim-thằng hẳn giai,
Chỉn e thưa gửi rõ bài,
Thương con hẳn chẳng nỡ hoài cho đi.
Thôi thì xuất cáo làm chi,
260- Thân này còn quản thị-phi được nào !
Bàn thầm mọi lẽ thấp cao.
Ba mươi sáu chước chước nào là trên ?

15- Thị-Kính cải trang trốn đi ở chùa

Xuất gia quyết một gan liều,
Phụ tinh, đới nguyệt bước lên dặm đường.
Quần chân áo chít dịu-dàng,
Giả hình nam-tử ai tường căn-nguyên.
Song đường thấy sự ngạc-nhiên,
Ruột tằm bối rối, thêm phiền não ra.
Biết đâu dặm thẳm đường xa,
270- Biết đâu giếng cạn, hay là bể sâu.
Chốc là phần ấy tuổi đầu,
Đến nay cả lớn, vừa hầu cậy trông.
Giải kia lầm giắt chữ đồng.
Tủi duyên ấy, để nỡ lòng sâm-thương.
Hay là bực tuyết buồn sương.
Như ai khoét vách, trèo tường, chớ chơi.
Vậy thì sao chẳng một lời,
Biết mà gả phắt cho đời là xong.
Đá vàng nghe cũng bền lòng.
280- Lẽ nào trống thủng bồng long đến điều,
Vì đâu gió quở mưa trêu,
Để nguồn trôi-nổi, cho bèo mênh-mông.
Mắt lòa, chân chậm, răng long,
Để như Lữ Ngọc hết công tìm tòi,
Biết bao nước mắt mồ hôi,
Cây đồng được mấy mươi chồi cho cam?
Bây giờ đôi ngả bắc nam,
Biết còn quanh-quẩn cõi phàm hay không?
Nghìn năm nghiêng lở non Đồng,
290- Biết còn ứng tiếng Lạc-chung đó là ?
Thương thay lụ-khụ tuổi già,
Dế năm canh nguyệt, quốc ba tháng hè.

16- Thị-Kính xin vào tu tại chủa Văn-Tự

Nàng từ xa chốn hương-khuê,
Nỗi mhà man mác mọi bề mà lo.
Cũng toan gỡ mối tơ vò.
Thành sầu cao ngất phá cho tan tành.
Tưởng ơn trời bể mông- mênh,
Dễ mà đền được ân-tình ấy đâu ?
Tà tà bóng ngả cành dâu?
300- Sớm khuya dưới gối ai hầu hạ thay ?
Vắng người khuất mặt lúc này,
Lòng người thiểu não biết ngày nào nguôi ?
Nghĩ điều mưa nắng xa-xôi,
Cảm thương đòi đoạn, bồi-hồi chừng nao !
Chân trời đất khách đã lâu,
Chiêm bao lẩn thẩn ở đâu quê nhà.
Hỏi thăm dặm liễu dần-dà,
Ngờ đâu Văn-Tự chẳng là ở đây,
Bốn bề phong cảnh lạ thay,
310- Bồng-lai khi cũng thế này mà thôi.
Cửa-Thiền sẽ lẻn chân coi,
Trông lên sư-phụ vừa ngồi tụng kinh.
Mưa hoa rảy khắp bên mình,
Nhấp-nhô đá cũng xếp quanh gật đầu .
Mới hay đạo Phật rất mầu,
Nghĩ đây cũng dễ đổi sầu làm vui,
Chờ khi kinh giáo vừa rồi,
Lạy sư-phụ, bạch khúc-nôi tỏ tường.
Trình-bày tên họ gia-hương,
320- Nhà xưa theo dấu văn-chương cũng là.
Chán vùng danh lợi phồn-hoa,
Chắp tay xin đến Thiền già quy y.
Sư rằng : " Này đạo từ-bi ,
"Rộng đường phổ-độ , hẹp gì trần-duyên .
"Nhưng sao đương độ thiếu-niên ,
"Nhìn xem phong-thể cũng nên con người.
"Cớ chi nhà lối xa khơi,
"Đem mình đài-các , vào nơi lâm-tuyền .
"Hay là tủi phận hờn duyên,
330- "Hay là đeo lụy mang phiền chi chăng ?
"Chỉn e vượn Sở lạc chừng,
"Bận lòng đến cả cây rừng, chưa minh
?"
Thưa rằng : "Trẻ mỏ thư-sinh,
"Làm chi cho được luỵ mình, chớ e !
Nền nhân nhờ bóng sân hòe,
"Cũng may tới cửa ngựa xe với người.
"Đoái trông thế-sự nực cười,
Như đem trò rối mà chơi khác gì.
"Phù-vân một đóa bay đi,
340- "Khi thì áo trắng, khi thì muông đen
"Chật đường chen-chúc như nen,
"Cân đai nhan-nhản người quen với mình.
"Chẳng thèm ra áng công -khanh,
"Mà đem thân-thế làm hình dịch chi.
"Cho nên mến cảnh trụ-trì
"Dám xin nhờ bóng tăng-huy xét lòng."
Sư khen rằng : kẻ nho phong,
Đã say đến chữ sắc không đấy mà !
Kìa bào, kìa ảnh phút qua,
350- Kìa sương, kìa chớp, kìa là chiêm-bao
Lọ là tranh trí thấp cao,
Kẻ xem khoái chí, người gào thất thanh
"Lấy ai làm nhục làm vinh,
"Trăm năm là nấm cỏ xanh rì rì.
"Sao bằng vui thú liên-trì,
"Dứt không tứ tướng, sá gì nhị biên,
Đạo này huyền thực là huyền,
Hư-vô mà vẫn trang nghiêm thế này,

17- Thị-Kính được đổi tên là Kính-Tâm làm tiểu ở chùa

"Tiểu đã mến đạo đến đây,
360- "Kính-Tâm tên đặt từ nay gọi thường.
Vâng lời nương cảnh thượng phương,
Khêu đèn bát-nhã, gióng chuông tam-huyền.
Chân-kinh ghi chữ tâm truyền,
Trực tòa Long-nhiễu, vui miền Hổ-khê.
Đòi cơn tưởng nỗi hương-khuê,
Người đi nghìn dặm, bóng về năm canh.
Sự mình, mình giận với mình,
Nặng tình cũng phải nén tình làm khuyây.
Thanh gươm trí tuệ mài đây,
370- Bao nhiêu khổ não cắt ngay cho rồi.
Hương xông pháp-giới ngùi-ngùi,
Thông rung trống kệ, trúc hồi mõ kinh.
Có người cảnh lại càng thanh,
Bồn không cũng nảy ra cành liên-hoa.
Đã lồng ba tấm cà-sa,
Nhưng người tiên vẫn trông ra khác phàm.
Dập-dìu trước chốn thiền-am,
Kẻ hoài xuân những muốn làm ni-cô.
Ngỡ chàng Phan Nhạc đấy ru,
380- Ra đâu cũng ném quả cho tiếc gì.

18- Thị-Mầu phải lòng Kính-Tâm

Trời sinh tư-sắc làm chi,
Hoa thơm bướm cũng có khi bợn lòng.
Trong làng có một phú-ông,
Gia-tư đọ với Thạch Sùng kém đâu.
Tiểu-thư ở chốn hồng-lâu,
Tuổi vừa đôi tám Thị-Mầu là tên.
Lá hồng đặt xuống nâng lên,
Mối duyên đo-đắn chưa nên mối gì.
Nào rằng giữ nết khuê-vi,
390- Ngày rằm mồng một cũng đi cúng đàng
Nhác trông thấy tiểu dịu-dàng,
Sóng thu xui khiến cho nàng khát-khao.
Người đâu có dáng thanh tao,
Bóng trăng dưới nước, vẻ sao trêntrời.
Dáp thưa chưa kịp hết lời,
Mới giàn mặt, thoắt đã rời chân đi.
Khấn sao đức Phật độ trì,
Xui ra, họa có chước gì được thân.
Như không phải kiếp Châu trần.
Thì xin một trận phong vân cũng nhờ.
lạ thay tiểu vẫn hững-hờ,
Mấy phen thời cũng thờ ơ với mình.
Hoa kia nói, hẳn nghiêng thành,
Chào hoa hoa lại vô tình mới căm.
Tri-âm chẳng gặp tri-âm,
Để ai mong đứng mong nằm, sầu riêng,
trách ông Nguyệt-lão nào thiêng,
Có khi bên Thích cũng kiêng kẻo là !
Đăm đăm tưởng nguyệt, mơ hoa,
410- Biết sao khuyây-khỏa cho qua cơn sầu.

19- Thị-Mầu tư thông với đứa ở

Trong nhà sẵn có đứa thương-đầu,
Quyền nghi một chút dễ hầu ai hay
Nào ngờ gió thổi mây bay
Hạt kia gieo xuống đợi ngày mà sinh
Ba trăng coi đã khác hình
Bữa cơm thì biếng, mùi chanh thì thèm

20- Phú Ông tra hỏi Thị-Mầu

Song thân ngờ, mới hỏi xem,
"Sao con lại mọc ra điềm chẳng hay ?
"Thế mà ai hỏi bấy nay,
420- "Đôi bêu tay áo chẳng day bên nào
"Lở ra rồi biết làm sao,
Chớ con trả mận gieo đào với ai ?
"Dễ mà ăn cáy bưng tai,
"Dăng-dăng nghe chuyện bên ngoài hổ ngươi
Nàng rằng :" Đâu khéo những lời,
"Ngọc lành ai có dại đời thế đâu ?
"Cành hoa vẫn giữ còn màu,
Con oanh dẫu hót cho sầu, trối thây.
"Ví dù tính nước lòng mây
430- Nhà ma nào chịu đến rày chửa đi.
"Năm xung tháng hạn phải khi,
Hóa ra thế ấy hỏi chi tức mình ?"
Dứt lời nghe mõ nguyệt-bình,
Rằng đòi con gái ngoại tình ra tra.
Phú ông thấy sự xấu xa,
Trở vào tắc lưỡi, trở ra vật mình.
Rằng :"con sinh sự, sự sinh,
"Há rằng vạ ở trời xanh gieo vào,
"Một là động địa làm sao,
440- Nước phương mộc dục chảy vào chẳng sai,
"Hai là lầm thuốc dông-dài,
"Cái dâm dương-hoắc thì ai cũng vừa,
"Ba là phải đứa trao bùa,
"Miếng trầu hoan-hỷ nó cho bao giờ.
"Vô tình nào có ai ngờ,
"Thế mà ăn nói ỡm-ờ như không.
"Khôn mà thưa gửi cho xong,
"Chẳng thì bè chuối trôi sông chẳng hoà".

| |
Chú thích: