Nhà Đinh và nhà Tiền Lê (967-1009)
1. Thập-nhị sứ-quân
Nghiệp Ngô rầy có ai thay?
Đua nhau lại, phó mặc tay quần-hùng.
Tiên-du riêng một đề-phong,
Nguyễn-Công Thủ-Tiệp cứ vùng Nguyệt-Thiên
Đường-lâm riêng một sơn-xuyên,
Ngô-Công Nhật-Khánh cứ miền Tản-Thao.
Tây-phù-liệt có Nguyễn-Siêu,
Ngô-Xương-Xí giữ Bình-kiều một phương.
Tế-giang này có Lữ-Đường,
Nguyễn-Khoan hùng cứ Vĩnh-tường phải chăng?
Phạm-Phòng-Át giữ châu Đằng,
Kiều-Tam-Chế giữ ngàn rừng châu Phong.
Đỗ-Giang kìa Đỗ-Cảnh-Công;
Kiều-công tên Thuận ở trong Hồi-hồ .
Kiến ong Siêu-loại tranh đua,
Lý-Khuê một cõi trì-khu dầu lòng.
Kình-nghê Bố-hải vẫy-vùng,
Trần-công tên Lãm xưng hùng một nơi.
Phân-tranh hội ấy nực cười!
Mười hai quan sứ mỗi người mỗi phương.
2. Đinh-Bộ-Lĩnh hợp nhất quốc-gia
Xây vần trong cuộc tang-thương,
Trải bao phân-loạn mới sang trị-bình.
Có ông Bộ-Lĩnh họ Đinh,
Con quan thử-sử ở thành Hoa-lư.
Khác thường từ thuở còn thơ,
Rủ đoàn mục-thụ mở cờ bông lau.
Dập-dìu kẻ trước người sau,
Trần-ai đã thấy vương-hầu uy-dung.
Một mai về với Trần-công,
Hiệu xưng Vạn-thắng, anh-hùng ai qua.
Bốn phương thu lại một nhà,
Mười hai sứ-tướng đều là quét thanh.
3. Chính sách nhà Đinh
Trường-yên đầu dựng đô-thành.
Cải-nguyên là hiệu Thái-bình từ đây.
Ngìn năm cơ-tự mới xây,
Lên ngôi hoàng-đế đặt bầy trăm quan.
Có đưòng-bệ có y-quan,
Đẳng-uy có biệt, giai-ban có thường.
Tống phong giao-chỉ quận-vương,
Cha con đều chịu sủng-chương một ngày.
Hồng-Bàng để mối đến nay,
Kể trong chính-thống từ đây là đầu.
Tiếc không học-vấn công-phu,
Chuyện xưa ít biết, lo sau vụng đường.
Già-tăng cũng dự quan sang,
Bặc, Điền, Cơ, Tú đều phường vũ-nhân.
Nội-đình năm vị nữ-quân ,
Nặng tình kiêm-ái , quên phần di-mưu.
Đã phong Đinh-Liễn con đầu,
Hạng-Lang là thứ nhẽ nào đổi thay?
Pháp-hình cũng lạ xưa nay,
Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.
4. Nhà Đinh mất ngôi
Chơi bời gần lũ tiểu-nhân,
Rượu hoa ngọt giọng, đền xuân mê lòng.
Trùng-môn thưa hở đề phòng,
Để cho Đỗ-Thích gian-hùng nỡ tay.
Nối sau Thiếu-đế thơ ngây,
Lê-Hoàn tiếp-chính từ rầy dọc ngang.
Tiếm-xưng là Phó-quốc-vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung-tình.
Bặc, Điền vì nước liều mình,
Trách sao Cự-Lạng tán-thành mưu-gian
5. Lê-Hoàn phá quân Tống
Chợt nghe binh báo Nam-quan,
Cùng nhau phù-lập Lê-Hoàn làm vương.
Trước mành, vâng lệnh nàng Dương,
Trong cung đã thấy áo vàng đưa ra,
Trường-yên đổi mặt sơn-hà,
Đại-Hành trí-lược thực là cũng ghê!
Vạc Đinh đã trở sang Lê,
Nàng Dương chăn gối cũng về hậu-cung.
Nguy-nga ngói bạc, cột đồng,
Cung-đài trang-sức buông lòng xa-hoang,
Tự mình đã trái luân-thường,
Lấy chi rủ mối, dựng giường , về sau.
6. Nhà Lê thất-chính
Đoàn con đích, thứ tranh nhau,
Để cho cốt-nhục thành cừu bởi ai?
Trung-tông vừa mới nối đời,
Cấm-đình thoắt đã có người sính-hung,
Ngọa triều thí-nghịch hôn-dung,
Trong mê tử-sắc, ngoài nồng hình-danh,
Đao-sơn, kiếm-thụ đầy thành,
Thủy-lao bào-lạc ngục-hình gớm thay.
Bốn năm sầu oán đã đầy,
Vừa tuần Lê rụng đến ngày Lý sinh.
|
|
Chú thích:
Quần hùng: lũ người có trí-dũng
Đồ phong: bờ cõi
Nguyệt Thiên: sông Nguyệt-đức và sông Thiên-đức thuộc tỉnh Bằc-Ninh
Tản Thao: sông Thao và núi Tản thuộc tỉnh Sơn Tây
Tây phù-liệt: tên làng thuộc huyện Thanh-trì Hà-đông
Bình-kiều: nay chưa rõ ở đâu
Tế-giang: nay thuộc huyện Văn-giang tỉnh Bắc-ninh
Vĩnh-tường: thuộc Vĩnh-yên
Châu-đằng: xã Đằng châu, Khoái châu Hưng-yên
Châu-phong: huyện Bạch hạc tỉnh Vĩnh-yên
[Back to the top]
Hồi-hồ: nay thuộc tỉnh Sơn-Tây (xã Cẩm-khê
Siêu-loại: nay là phủ Thuận-thành tỉnh Bắc-ninh
Trì-khu: giong ruổi vẫy vùng
Kình-nghê: cá voi đực và cái chỉ người có sức mạnh
Bố-hải: thuộc huyện Vũ-tiên tỉnh Thái-bình
Tang-thương: dâu bể tức là thay đổi ngược đi ngược lại
Phân-loạn: rối loạn
Trị-bình: yên-ổn
Mục-thụ: trẻ chăn trâu bò
Trần-ai: cát bụi, chỉ lúc còn khổ sở hàn-vi
[Back to the top]
Vương-hầu uy-dung: oai và dáng của bậc vua chúa
Sứ-tướng: sứ-quân
Quết thanh: quét sạch
Trường-yê...đô thành: kinh đô đóng ở Trường-yên (Hoa-lư)
cải-nguyên: đổi niên-hiệu
cơ tự: nền mối
Đường-bộ: cung điện
Y-quan: mũ áo riêng cho mỗi phẩm
Đẳng-uy: thứ-bậc và quyền-hành
Giai ban: thứ-bậc và hàng lối
[Back to the top]
Sủng-chương: ơn vua ban; vua nhàTống phong Vạn-thắng vương làm Giao-chỉ quận-vưong và Đinh-Liễn làm Tiết-độ sứ cùng một lúc
Để mối: đặt ra mối lập nước
chính thống: dòng chính
Già-tăng: người tu đạo Phật: sư, ni
Bặc, Điền, Cơ, Tú: Nguyễn-Bặc, Đinh-Điền, Lưu-Cơ, Trịnh-Tú, đều là võ-tướng của vua Đinh
Nữ-quân: vua ba, hoàng-hậu
Kiêm-ái: yêu đương nhiều đàn bà
Di-mưu: lo cách để giữ cơ-nghiệp để lại cho con cháu
Đền-xuân: cung điện có nhiều con gái đẹp
Trùng-môn: hai lần cửa; chỉ chỗ thâm nghiêm
[Back to the top]
Tiếp chính: nhận quyền-bính để cai-trị thay vua
Tiếm xưng: tự ý xưng, mà không có vua phong tước
Cự-Lạng: họ Phạm vào đảng với Lê-Hoàn
Nam-quan: ải thuộc tỉnh Lạng-Sơn phân biên giới nước Tầu và nước ta
Phù-lập: giúp mà lập nên
Rủ mối dựng giường: đặt phép tắc cho người theo
Đích thư: con cả, con thứ
Cốt nhục thành cừu: anh em xương thịt mà thành ra thù-nghịch
Cấm đình: nơi vua ở
Sính-hung: làm điều dữ
[Back to the top]
Ngọa triều: nằm ở triều; Long Đĩnh dâm đãng quá độ, mắc bệnh, khi ra triều phải nằm, nên sử gọi là Ngọa-triều
Thí nghịch: giết vua
hôn-dung: ngu hèn
nồng hình-danh: nổi tiếng vì luật-lệ ác-nghiệt
Đao sơn kiếm thụ: đao xếp thành núi, gươm dựng thành rừng, để chém giết dân
Thủy-lao: nhà ngục xây dưới nước
Bào-lạc: vạc dầu đun sôi để bỏ tội nhân vào