Nền đô-hộ của nhà Đường (603-905)

1. An-nam đô-hộ-phủ

Quan Tùy lại có Khâu-Hòa,
Đem dâng đồ-tịch nước ta về Đường.
An-nam mới lại canh-trương,
Đặt Đô-hộ phủ theo đường Trung-Hoa.
Mười hai châu lại chia ra:
Giao, Phong, Lục, Ái, Chi, Nga, Diễn, Tràng.
Vũ-an, Phúc-Lộ, Hoan, Thang
,
Cơ-mi các bộ man hoang ở ngoài.

2. Mai-Thúc-Loan khởi-nghĩa

Quan Đường lắm kẻ tham tài,
Binh dân hàm oán, trong ngoài hợp mưu.
Mai-Thúc-Loan ở Hoan-Châu,
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa.
Hiệu cờ Hắc-đế mở ra,
Cũng toan quét sạch sơn-hà một phương.
Đường sai Tư-Húc tiếp sang,
Hợp cùng Sở-Khách hai đàng giáp-công.
Vận đời còn chửa hanh thông.
Nước non để giận anh hùng nghìn thu.

3. Giặc Đồ-Bà

Trấn-nam lại đổi tên châu,
Một đời canh-cải trước sau mấy kỳ.
Xa khơi ngoài chốn biên thùy,
Đồ-bà giặc mọi đua bề phân-tranh.
Bá-Nghi hợp với Chính-Bình,
Dẹp đoàn tiểu-khấu, xây thành Đại-La.

4. Phùng-Hưng khởi nghĩa

Xiết bao phú trọng, chính hà,
Sinh dân sầu khổ ai là xót chăng?
Đường-lâm mới có Phùng-Hưng,
Đã tài kiêu-dũng, lại lưng phú-hào.
Cõi Tây nổi việc cung đao,
Đô-quân tôn hiệu, Tản-Thao hiệp tình.
Đem quân thẳng đến vây thành,
Đại-La thế bức, Chính-Bình hồn tiêu.
Nhân phủ-trị mở ngôi triều,
Phong-châu một giải nhiếp-điều mấy niên.
Đế-hương phút trở xe biền,
Đại vương Bố-Cái tiếng truyền muôn thu.
Phùng-An con nối thơ ngu,
Nghe quan nhu-viễn bầy mưu hàng Đường.

5. Chuyện Lý-Ông-Trọng

Kể từ đô-hộ Triệu-Xương,
Thành La xây lại vững vàng hơn xưa.
Thuyền chơi qua bến sông Từ,
Giấc nồng đâu bỗng tình cờ lạ sao.
Thấy người hai trượng dài cao,
Bàn kinh, giảng truyện khác nào văn-nhân.
Cùng nhau như gửi tâm thần,
Tỉnh ra mới rõ nguyên căn tỏ tường.
Lý-Ông-Trọng ở Thụy-hương,
Người đời vua Thục mà sang thi Tần.
Hiếu-liêm nhẹ bước thanh-vân,
Làm quan hiệu-úy đem quân ngữ Hồ .
Uy-danh đã khiếp Hung-nô,
Người về Nam quốc, hình-đồ Bắc phương.
Hàm-dương đúc tượng người vàng,
Uy-thừa còn giúp Tần-hoàng phục xa.
Hương thơm cổ miếu tà tà,
Từ nay tu-lý mới là phong-quang.

6. Quan-lại nhà Đường

Triệu công tuổi tác về Đường,
Quý-Nguyên, Bùi-Thái tranh quyền với nhau.
Triều-đình kén kẻ trị-châu,
Triệu công vâng mệnh xe thiều, lại sang.
Bản-kiều vừa nhận dấu sương,
Bến hồng đã định, khói lang cũng tàn.
Trương-Đan thay chức phiên-hàn,
Tập nghề thủy-chiến, tạo thuyền đồng-mông.
Đại-la mới đắp lũy vòng,
Ái, Hoan thành cũ đều cùng tái-tu.
Quan tham ai chẳng oán thù,
Kìa như Tượng-Cổ sư-đồ bạn-ly.
Quan hiền ai chẳng úy uy,
Kìa như Mả-Tổng man-di đầu hàng.
Nguyên-Gia dời phủ Tô-giang,
Đến năm Bảo-lịch dời sang Tống bình.
Giao-châu binh mã tung-hoành,
Thăng-Triều đã dẹp, Dương-Thanh lại nồng.
Kìa ai tôn-trở chiết-xung,
Mã-công tên Thực anh hùng kém chi.
Tiết-thanh cảm vật mới kỳ,
Dưới dòng Hợp-phố châu đi cũng về.
Kiềm-châu xa ruỗi mã-đề,
Hồng bay còn dấu tuyết-nê chưa mòn.
Nhũng quan lại gặp Vũ-Hồn,
Thành-lâu lửa cháy, dinh đồn quân reo.
Đoàn công vâng mệnh Đường triều.
Trước xe phủ dụ, giặc nào chẳng tan.
Thôi trung thổ, lại ngoại man,
Châu-Nhai, Nguyên-Hựu sai quan mấy lần.
Nho môn có kẻ tướng thần,
Họ Vương tên Thức kinh-luân gồm tài.
Thành môn nghiêm nghị trong ngoài,
Trồng cây trúc mộc, tập bài cung đao.
Châu dân đều thấm ân cao,
Chiêm-thành, Chân-lạp cũng vào hiệu cung.

7. Giặc Nam-Chiếu

Xe thiều vừa trở về Đông,
Giặc Man thừa khích ruổi giong cõi ngoài.
Vương-Khoan, Lý-Hộ phi tài,
Đường sai Thái-Lập lĩnh bài Giao-Châu.
Biên thư mấy bức về tâu,
Kẻ xin lưu-thú, người cầu bãi binh.
Ghen công vi hoặc, Thái-Kinh,
Thờ ơ để việc biên tình mặc ai.
Tiếc thay muôn dặm thành dài,
Cô quân nên nỗi thiệt tài chiết xung.
Ngu-Hầu tiếp chiến bên sông,
Quyết liều một trận đều cùng quyên sinh.
Vua Đường tuyên chỉ triệt binh,
Bỏ hàm Đô-hộ, đặt hành Giao-Châu.
Trấn, đồn, cửa bể, đâu đâu,
Tống-Nhung, Thừa-Huấn hợp nhau một đường.
Dùng dằng nào dám tiến sang,
Tám ngàn quân bỏ cương tràng sạch không.
Dối tâu lại muốn cầu công,
Rồi ra sự phát đều cùng nghị lưu.

8. Cao-Biền dẹp Nam-Chiếu

Cao-Biền là tướng lạc điêu,
Tài danh sớm đã dự vào giản-tri.
Quân phù vâng lệnh chỉ-huy,
Tiệp-thư sai một tiểu-ty về chầu.
Gia quan cho lĩnh tiết mao,
Đặt quân Tĩnh-hải biên vào bản chương.
Một châu hùng cứ xưng vương,
Thành La rộng mở, kim thang vững bền.
Tuần hành trải khắp sơn xuyên,
Đào Thiên-uy cảng, thông thuyền vãng lai.
Chín năm khép mở ra tài,
Thành trì truyền dấu, miếu đài ghi công.
Rồi khi trở ngựa Hán trung,
Cao-Tầm là cháu nối dòng xưng phiên.
Họ Tăng, tên Cổn cũng hiền,
Giao-Châu di-ký còn truyền một chương.

| |

Chú thích: