Sãi Vãi với Nguyễn-Cư-Trinh

Sãi rằng:

Phật ôi là Phật ! Tu hỡi là tu !
Chúa sánh chúa Đường Ngu; tôi ví tôi Tắc Khiết.
Giang-san cũ thâu về đất Việt; điền tịch xưa đem lại trời Nam.
Chốn chốn đều tư tái tư tam; nhà nhà cũng tỉ xương tỉ xí.
5- Già phò gậy đến xem thạnh-trị; trẻ ngậm cơm mừng gặp thái-bình.
Nước sông vàng lẻo-lẻo dòng xanh; dân con đỏ hây-hây nhà rạng.
Chợ chưa ra giá bán; đường chẳng lượm của rơi.
Đời đã nên đời ; thú vừa vui thú.
Linh-San am quê ngụ, Sãi sắc tứ tu trì.
10- Lòng mộ đạo tăng-ni, miệng niệm Nam-mô Phật.
Bì chi kẻ đua-tranh xảo-quyệt; quản bao (người) bạn-tác ngư-hà.
Lòng từ-bi mộ đạo Thích-Ca; nguyện Phật-pháp vui bề trai-gái.
Tiêu-diêu cảnh ngoại, nong-nả trần trung.
Tương dưa đòi bữa no lòng, bô vải miễn cho ấm cật.
15- Màn trời chiếu đất, gẫm tợ am thanh.
Đạo Như lai càng niệm càng lành; câu giáo-hữu thoạt ngâm thoạt lạ.
Dựa màu thuyền bát-nhã; lần chuỗi hột bồ-đề.
Rỗi mộc-ngư diễn kệ sớm khuya; nương thạch khánh phần hương trưa tối
Ước siêu tam muôi, ngõ thoát cửu huyền
20- Lăm đền mộc bổ thuỷ nguyên; dốc báo càn-khôn phù tái.

Vãi rằng:

Chẳng hay ông sãi, quê-quán phương nao ?
Lời diễn kệ rất cao, đạo tu-hành thêm chói.

Sãi rằng:

Lựa là phải hỏi quê vức làm chi;
Nếu phải đạo tăng-ni, tu cùng nhờ phần phước.
25- Sãi người sanh trong nước, Sãi cũng khỏi xâu bơi.
Sãi sanh ở trong đời, Sãi cũng không thuế khóa
Khăng thìn đạo cả; vẹn giữ giềng ba.
Ngay với chúa, thảo với cha; nghĩa cùng thầy, tin cùng bạn.
Xưa Sãi biết chăn dân muôn quận; xưa Sãi hay giữ việc nhà vàng.
30- Già cám ơn mãi mã huyền dương; hùm nghe chánh cong đuôi về núi.
Xưa Sãi cũng biết giữ mình làm côi; xưa Sãi cũng hay lấy đức chăn dân.
Giữ thước mực cầm cân; đánh roi bồ răn chúng.
Lỡ bề lương-đống, tạm dụng rui mè.
Sãi học lại vãi nghe, hoạ là có lòng chuộng.
35- Mới tụng kinh vừa xuống, nghe tiếng khánh gióng lê.
Ngỡ là chuông vua Hạ Võ chiêu hiền; ngỡ là đạc đức trọng-Ni thiết giáo
Sãi yêu vì đạo, Sãi dấu vì duơn.
Thấy mụ vãi nhan sắc có hơn; Sãi theo với tu-hành kẻo thiệt.
Khoan khoan ! chưa biết vãi ở chùa nào?
40- Thanh tân mày liễu má đào; đẹp-đẽ mắt sao da tuyết.
Lòng người dầu thiết, thời đạo cũng gần.
Qua tây-phương còn cách trở non thần; sau phương-trượng đã sẵn-sằng bàn Phật
Ngoài che sáo nhặt, trong xủ màn thưa.
Lạnh thời có mền bát-tơ; nực thời có quạt lục-phủ.
45- Chiếu du trơn như mỡ; thuốc lá ướp hoa ngâu.
Rượu hồng cúc ngàu-ngàu; trà mỹ xuân phức-phức.
Sẵn đồ, sẵn đạc; sẵn vãi, sẵn thầy;
Thoát liêu sau cho gần đó gần đây; vào cùng Sãi đặng tu hoài tu hủy.

Vãi rằng:

Lời sao nói nguy, chẳng phải tánh chơn.
50- Tu làm sao mà lo thiệt lo hơn ? Tu làm sao mà tham tài tham sắc ?
Ấy chẳng là bội đức. Chớ tu những điều chi ?

Sãi rằng:

Sãi cũng muốn tu trì, khốn thiếu đồ khí-dụng.
Thiếu chuông thiếu trống ; thiếu kệ thiếu kinh.
Thiếu sứa thiếu sinh; thiếu tiêu thiếu bạt ;
55- Thiếu bình thiếu bát; thiếu đậu thiếu tương ;
Thiếu bình bông lư hương; thiếu tiền bàn lá phủ;
Thiếu hài thiếu mũ ; thiếu hậu thiếu y;
Thiếu tiền đường sơ ly; thiếu thượng phương liễn đối;
Thiếu bê son bình sái; thiếu tích trượng ca-sa;
60- Thiếu hương thiếu hoa; thiếu xôi thiếu Phật. Ấy là đồ vặt, Sãi hãy sắm sau.
Thứ nào kíp làm đầu, Sãi phải toan sắm trước.
Nhiễu Thượng-Hải, Sãi sắm một cái quần cho tốt; bố cát-căn, Sãi sắm một cái áo cho xuê
Nón kiểng-hàng, sãi sắm một cái cho xinh ghê; quạt ban trúc, sãi sắm một cây cho báu riết.
65- Giày hồng-hài, Sãi sắm một đôi để đạp gót; khăn bích-cân, Sãi sắm một cái để bịt đầu.
Sãi lại sắm một đứa tiểu-đồng con-con để cắp ống điếu cho mầu; Sãi lại sắm một thước hồ la đo-đỏ, Để buộc đãy sô cho ngỏa.
Chợ nào nhiều bạn-hàng các ả, xóm nào đông bổn-đạo các dì,
Sãi một tu lại tu đi, Sãi một tu lên tu xuống.
Sãi lại sắm một cái phương-trượng, để sau liêu vắng-vẻ một mình,
70- Trên mặt thì rộng thinh; dưới chân cho kín mít.
Đương khi thời cơm thịt, có bổn-đạo vừa lên;
Nghe tiểu-đồng tằng-hắng tiếng lên, mấy đĩa thịt Sãi thâu vào đó.
Sãi lại sắm một cái vườn nho nhỏ, ở cho cách xóm xa xa.
Đề phòng khi bổn-đạo chửa nghén ra, dễ khiến Sãi khoanh tay mà ngồi vậy.
75- Sãi lại sắm tiền nghề bỏ đãy, sáp tốt để đánh môi;
Ngộ phải khi cờ bạc thua hoài, dễ khiến Sãi khoanh tay ngó lảng.
Sãi lại sắm một hai bình thuốc tráng, với năm bảy đạo bùa mê;
Sắm một tiểu-tăng cho hay tin lại tin về; sắm một tín-nữ cho hay nói ngon nói ngọt;
Phải nơi gái tốt, vả lại nhiều tiền;
80- Giữ nết-na nó chẳng đến chùa-chiền, há khiến Sãi làm thinh mà giả điếc.
Việc Sãi thì Sãi biết, việc Vãi thì Vãi hay ;
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà tuông nhằm vế.

Vãi rằng:

Lời sao nói quấy, tai chẳng muốn nghe.
Trí-tuệ thông như "hoa nở bồ-đề"; nhơn-duyên bạc tợ "nhị thù Ưu-Bát".
85- Tuy ngồi mật thất, nào khác thông cù ;
Trời xa xa rộng thẳm mà chẳng mù; lưới lộng-lộng bủa thưa mà không lọt.
Nói một lời lỗi luật, tu muôn kiếp khôn đền.
Sãi rằng : Nơi Thiên-đường, ông hỡi chưa lên; chốn Địa-ngục, ông toan kíp xuống.

Sãi rằng:

Vãi này hẹp lượng, chẳng biết hí ngôn.
90- Có Thiên-đường thì quân-tử tu lên; có Địa-ngục thì tiểu-nhơn tu xuống.
Hễ là quân-tử lượng, thì tu đức thắng tài.
Thờ vua, hết ngay ; thờ cha hết thảo.
Một lời nói phải nhơn phải đạo, ấy là tu ngôn;
Một việc làm chẳng hại chẳng tham, ấy là tu hạnh.
Lấy nhân mà tu tánh, lấy đức mà tu thân.
95- Tu minh-đức để mà tân dân ; tu tề gia để mà trị quốc.
Ấy là trang hiền-đức, tu cho phải đạo tu.
Ngoài thì tu khoan-dũ ôn-nhu ; trong thì tu hoà-bình trung-chính.
Tu cung, tu kính ; tu kín, tu thành.
Đã phải đạo tu-hành, lại thêm nền phước-chỉ
100- Tự nhiên: đắc-lộc, đắc vị ; đắc thọ, đắc danh.
Đắc phú-quý hiển-vinh. Ấy Thiên-đàng là đó.
Hễ là trang hiền-ngõ, thì tu đến Thiên-đàng.
Còn kẻ tiểu-nhơn gian, thì tu vào Địa-ngục.
Tiểu-nhơn thói tục, tu những tánh phàm.
105- Tu những lòng bạc-ác gian-tham ; tu những dạ hung-hoang tàn-bạo.
Nuôi cho lớn mà tu lòng bất-hiếu ; ăn cho no mà tu dạ bất-trung.
Tu sắc lành để mà a-ý khúc-tùng ; tu lời khéo để mà sức-phi văn-quá.
Người hiền-ngõ, tu ghét-ghen ngăn-trở ; kẻ lỗi-lầm, tu tìm-kiếm don-ren.
Tu lưỡi mềm lấy của cho đầy then ; tu mưu độc hại người cho đã giận.
110- Đứa tiểu-nhiơn như rận, tu rút máu người ta.
Tu càng dày càng nhục ông nhục cha; tu càng dày càng hại con hại cháu.
Tu vơ tu váo ; tu chạ tu càn.
Hễ là đứa đại-gian, thì tu điều bất-ngãi.
Âm vi quỷ-thần sở hại, dương vi vương-pháp sở tru.
115- Ấy là tiểu-nhơn chi tu, thì ắt tu vào Địa-ngục.
Muốn nghe đấng tu mà thoát tục, hãy còn trang thượng-trí chi tu.
Nhớ thủa Đường Ngu, thánh xưng Nhị Đế;
Nhị Đế người tu kỷ, mà trăm họ đều an.
Tam Vương người tu nhân, mà muôn dân đều trị.
120- Dầu những Hớn , Đường kế chí, Tống, Minh tương truyền.
Có tu đức, thì thiên-hạ mới trị yên ; có tu nhân , thì cơ-đồ mới củng-cố
Dầu những tu văn tu võ, người cũng tùy thời mà tu.
Thuở thái-bình, yển võ tu văn ; cơn bát-loạn, yển văn tu võ.
Trên một người tu đủ, dưới trăm họ hoà-hài
125- Hây-hây thọ-vức xuân-đài ; tu vậy thiệt trang thượng-trí.
Bằng muốn xét cho cùng nhơn-sự, hãy còn nhiều trung-trí chi tu.
Kìa như Mặc Địch Dương Chu, tu một việc vị nhơn, vị ngã.
Nhổ mảy lông, mà lợi cả thiên-hạ, thì Dương Chu tu một sự chẳng vui.
Mài hết trán, mà lợi có một người, thì Mặc Địch tu một lòng chẳng nại.
130- Dầu những Thích-Ca tu lại, cùng với Đạt-ma tu qua.
Tu cho tính-chuyên là La-Thập Cưu-Ma; tu cho khổ não là Văn-Thù Bồ-Tát.
Ấy là người ngoại-quốc, chọn theo thói Trung-Hoa.
Chê sự đời phú-quý vinh-hoa ; muốn vui thú thanh-nhàn dật-lạc.
Nghiệm chữ kia cho xác, chữ Tiên là "nhứt cá sơn nhơn".
135- Suy chữ nọ cho chơn, chữ Phật là "phất tri nhơn sự".
Ai dữ thì mặc dữ , ai lành cũng mặc lành.
Nhà hưng vong, phụ tử chẳng binh ; nước trị loạn, quân thần chẳng đoái.
Song chẳng can danh phạm ngãi; cũng không dịch tánh biến tình.
Tham Thiên-đường phải giữ lòng lành ; sợ Địa-ngục nên chừa thói dữ.
140- Tuy vô ích cũng không sanh sự; ấy là trang trung-trí chi tu.
Còn như tu mà hoá ngu, hãy còn nhiều trang hạ chí.
Kìa như Hán Võ-Đế; đã nên đứng minh-vương;
Nọ như Tần Thỉ-Hoàng ; rất nên trang hung-bạo.
Tham-lam cầu Đạo, lặn-lội tầm Tiên.
145- Mỏi sức người, trăm họ chịu lao-phiền; hao của nước, muôn dân than đồ-khổ.
Trăm chước sưu-cầu thì có, mảy lông ứng-nghiệm vốn không.
Đất Luân-Đài phải Hớn chẳng hối-ngộ trách cung ; aỉ Hàm-Cốc thì Tần cũng rắp-ranh làm phản.
Hỡi nhiều như Hán, chẳng chi một Tần.
Đời nào tu cho hơn Tống Đạo-Quân; đời nào tu cho kịp Lương Võ-Đế.
150- Nhục Mạc-Bắc, sao Tiên chẳng đến cứu về ? Đói Đài-thành, sao Phật không ra trợ nạn?
Tiếc cơ-đồ gầy dựng gian-nan : hoài sự-nghiệp tổ-tông sáng-tạo.
Châu-Sư đã vang-dầy tên pháo, Tề ngươn còn giảng đạo hoài hoài.
Khiết-Đơn đà vậy-phủ trong ngoài, Khâm Nhược vẫn tu trai mãi-mãi.
Hư thời đã phải, thác chẳng ai thương.
155- Hễ đạo làm đế làm vương, thì phải tu nhân tu chính ;
Tu quyền, tu bính; tu kỷ tu cang.
Trên, thì tu Nghiêu, Thuấn, Võ, Thang; dưới, thì tu kinh luân thao-lược.
Có đâu đi bắt chước thầy sãi mà tu-trì.
Đương ban ngày dầu có phép lên trời, luận đạo trị chẳng ích chi cho nước.
160- Thấy đâu đặng phước, đều những manh tai.
Nếu cứ theo mê đạo hoài-hoài, như vậy chẳng là trang hạ-trí ?

Vãi rằng:

Ngỡ là ông sãi, chẳng biết sự tu.
Ai dè gỉa đứa ngu, mới hay là bợm lịch
Khôn ngoan trong sạch, chữ nghĩa từ hoà.
165- Hẳn vàng nọ chưa pha; thiệt ngọc kia còn ẩn
Chẳng kiêu, chẳng lận; biết kính, biết nhường.
Biết tiểu-nhơn cỏ-rác mà rẻ-rang, biết quân-tử ngọc-vàng mà yêu-chuộng;
Biết khinh, biết trọng; biết của, biết người.
Ông có biết chuyện đời, nói nghe chơi cũng khá

| |