Uổng năm dây đờn khảy tai trâu: Nói chuyện nghĩa lý với kẻ ngu thì cũng uổng lời. Năm dây là năm bực của cung đàn : hò, sự, cống, liếu, xê.
Đờn năm dây là thứ đàn cầm của Trung-Hoa. Đờn kìm của ta có hai dây thôi.
hoài muôn hộc nước xao đầu vịt: Hao tốn vô ích. Hộc : 10 đấu hoặc 30 lít. Lông vịt có chất dầu không thấm nước, dùng muôn hộc nước để giội đầu vịt không ướt là làm việc thất công vô ích, không thấm vào đâu.
Phương ngôn có câu ; nước đổ đầu vịt, nước đổ lá môn.
quang: tiếng xưa, nghĩa là : đụng nhằm.
tế-thế: (kinh-bang tế-thế: tài kinh-tế ). Giúp đời.
Châu Thái-Tỷ: Gái nước Sằn, họ Tự, vợ vua Văn-Vương nhà Châu, mẹ của Võ-Vương. Tây Bá trị ngoại, Thái Tỹ trị nội . Có đức hiếu-kính, kiệm-cần, có lòng nhơn thương đến kẻ dưới. Không hề ghen ghét, các cơ thiếp thảy đội ơn. Đức chính lưu khắp.
Tống Tuyên-Nhơn: Vua Anh-Tông (1064-1068) đời Tống thăng-hà, để lại Thái-tử còn nhỏ, rất rõ tài chánh-sự. Sử khen là "vua Nghiêu Thuấn trong phần gái" (nữ trung Nghiêu thuấn).
Tạ Đạo Uẩn: Cháu gái quan tể-tướng Tạ-An đời Tấn có tài làm thơ, cùng anh là Tạ Lãng đọc bài thơ "Vịnh Tuyết" ; chú khen là có tài hơn anh.
Thái Văn Cơ: Tên Diễm tự Văn-Cơ, con của Thái Ung đời Đông Hớn. Trang tài nữ biết âm-luật. Nghe tiếng đàn biết phân biệt điềm lành dữ.
Đường Từ-Huệ: Từ-Huệ là thứ phi của vua Thái-Tông (627-650) đời Đường . Vua muốn xây bá-lạc-đài để thỏa tánh hoang-dâm dật-lạc. Triều thần can ngăn không được. sau bà Từ-huệ can, vua nghe, nên khỏi tốn hao của nước.
Hớn Đề-Oanh: Đề Oanh là con gái Thuần Vu Ý, đời Hớn Văn-Đế. Ông Thuần bị tội lăng trì, nhưng vì không có con trai để hậu-tự, nàng con gái thứ năm là Đề Oanh dâng thơ xin bán mình vào cung để chuộc tội cho cha. Vua thương tình bèn tha cha nàng
[Back to the top]
Thuyền bách: Nàng Cung Khương nước Tề lấy chồng là Cung Bá nước Vệ . Chưa cưới thì chồng chết, cha mẹ muốn gả chồng khác, nàng thủ-tiết không chịu, bèn làm thơ " Bách châu" tự ví mình như chiếc thuyền bằng cây bá, linh-đinh giữa dòng mà mà không sợ sóng gió.
Thuyền-quyên: Người con gái có sắc đẹp đẽ dễ thương.
ôm cầm: Tích bá nha và Chung Tử Kỳ. Bá Nha người đời Xuân-Thu, rất giỏi đờn. Nhơn về thăm quê nhà, nửa đêm ở dưới ghe, Bá Nha ôm đờn khảy. Chung Tử Kỳ nghe tiếng đờn mà biết được tâm-chí của Bá Nha khi trổi nhạc. Nhờ vậy nên hai người kết bạn "tri-âm" với nhau.
Khi chia tay, hẹn năm sau sẽ gặp nhau ở bến Mã-an. Đúng ngày hẹn, Bá Nha không thấy Tử Kỳ, ôm cầm khảy thì tiếng đời ai oán não-nùng. Bữa sau đi tìm mới rõ là Tử Kỳ đã chết. Bá Nha đến mộ, tế lễ, khảy một bài ai điếu., khóc-lóc thảm-thiết. Rồi đập đờn, thề không đờn nữa, vì cho ràng không còn ai biết nghe tiếng đờn của mình.
Mãng, Tào: (Vương Mãng và Tào Tháo). Vương Mãng tự Cự-Quân, hiệu An-Hớn-Công là quyền-thần đời Hớn Bình-Đế. Năm Bình-Đế thứ 4( Năm thứ 6 sau D.T.), giết vua, lập Nhũ Tử Anh, rồi soán ngôi, làm loạn hiên-hạ. Sau bị vua Quang-Võ tên Lưu Tú khởi binh trừ dẹp (22 sau D.T.)
Tào Tháo, (155-220) tự Mạnh-Đức , tiểu tự A-Man, danh nhơn đời Hậu Hán, có tánh đa nghi, nổi tiếng gian-hùng. Diệt Đổng Trác và thay y mà tiếm vị vua Hán Hiến-Đệ (190-219 sau D.T.). Hoàng-Hậu mưu phục ngôi vua ; nhưng bại lộ, bị Tháo hạ ngục và giết luôn cả Thái-tử. Tào Tháo cùng với Lưu Bị và Tôn Quyền chia ba nước Tàu mà chống chế nhau. Vì vậy nên sử gọi thời đó là Tam Quốc.
Cổ Tẩu: Cổ Tẩu- cha của vua Thuấn. Tánh độc-ác, cùng với vợ kế âm-mưu hãm-hại Thuấn, nhưng Thuấn là chí hiếu, chẳng bao giờ oán giận cha mẹ. Lòng chí hiếu của Ngài cảm-hóa được cha và mẹ ghẻ. Cổ Tẩu là người cha hung dữ.
Tùy Dương: hay Dương-Đế đời Tuỳ. (605-617). Con của Dương Kiên, Thái-tổ nhà Tuỳ 9589-617). Thuốc cha để đoạt ngôi, ông lại còn giết luôn hai em cho dứt hậu hoạn. Sau đào con kinh nối liền sông Hoàng-Hà với Dương-Tử-Giang. Bắt chước Tần Thỉ-Hoàng, ông cho cất đền-đài nguy-nga. Sau vì hoang-dâm quá độ nên chết trước khi bị soán ngôi.
Dương-Đế nhà Tuỳ là con bất-hiếu.
Nhan-Tử: Nhan Hồi hoặc nhan uyên (514-483 tr.D.T) . Học trò của Khổng-Tử. Được Khổng-tử mến vì.
Mới 29 tuổi mà đầu đã bạc phơ. Ông ở trong cảnh hàn-vi và vẫn lấy làm vui. Ông chết hồi 31 tuổi, Khổng Tử có biếu cho Nhan Lộ, cha của Nhan-tử, một cái xe. Nhờ bán xe ấy mà người cha mới có tiền chôn con.
Thạch Sùng: Tự Quý Luân, người ở Nam Bì, đời Tấn. Làm thứ-sử Kinh-Châu, sau đổi làm vệ-uý, nhờ sai-khiến khách hàng-hải mà làm giầu lớn. Cất "Kim-Cốc biệt thự" tại Hà-Dương, cùng với bọn Vương Khải, Dương Tú kết bạn, chuộng sự xa-xí.
Nhà có người thiếp đẹp tên Lục Châu. Tôn Tú muốn được Lục Châu nên đến cầu với Sùng. Song Lục Châu không chịu, nhảy lầu tự tận. Tú giận, gièm với Triệu Vương Luân, nên Thạch Sùng bị giết..
Tương truyền Thạch Sùng sau khi bị hại, chết hóa ra con thằn-lằn, vì tiếc của, nên chắt lưỡi mãi. Người Bắc Việt gọi con thằn-lằn là con thạch Sùng.
tìm vít: do câu xuy mao cầu tì, thổi lông để tìm vít. Nghĩa bóng : tìm lỗi nhỏ-nhặt của người, kiếm chuyện làm khó người.
Tài tụ tắc dân tán: (tiền gom lại, ắt dân bỏ đi tứ tán). Cuối đời nhà Thương, vua Trụ Trị-vì (1154-1135 tr. D.T.) Ông là một vua bạo-ngược, hoang-dâm vô-độ. Mê Đắc Kỷ, Xây Bá-lạc-đài và giết chú là Tỉ Can, một ông quan trung-Thần, để lấy trái tim xem coi phải có bảy lỗ chăng ? Sau bị con của Tây Bá đánh ; ông phải trốn vào thành nổi lửa thiêu luôn mình trong thành.
[Back to the top]
Tài tán tắc dân tụ:(Đem tiền hậu đãi ắt được bè tôi gom về tùng-phục), kế nối nhà Thương, nhà Châu giữ ngôi gần 900 năm (134-247 tr. D.T.). Thái-tổ nhà Châu là Phát, con của Tây Bá, xưng hiệu Võ-Vương (1134-1116 Tr.D.T.) Chính Võ-Vương cầm quân của tây Bá sang đánh vua Trụ bại-tẩu tại bến Mạnh-Tân. Vốn tánh hào-hiệp, Võ-Vương hậu-đãi các bề tôi của vua Trụ, nên giữ vững được nghiệp đế.
y-bát chơn truyền: Nhà Phật dùng phép ở cái áo và cái bình bát đặng truyền đạo cho môn-đồ, cho nên học-trò học được đạo, thầy kêu là "y bát chơn truyền".
Vạn gia sanh Phật: Phật sống của muôn nhà, chỉ ông quan có nhơn-đức của dân . Lấy tích ông Tư-Mã Ôn-Công đời Tống, nhân-đức lắm. Dân chúng tặng ông là "Vạn gia sanh Phật' . Ông chết năm 1086, được dân-chúng lập đền thờ.
nhất lộ phước tinh: Người có vì sao tốt chiếu mạng, đường đời không vấp, hưởng phước trọn đời. Người có phước lớn ; được người đời ca-tụng .
hiển-dương thinh-giá: làm nên danh-gía và tiếng-tăm được vẻ-vang với đời.
phụ-nhơn nan hoá: Đờn-bà khó dạy
Lữ: Lữ Vọng. Cũng gọi là Khương Thái-Công hay Thái-Công Vọng hoặc Khương-Thượng. Tự là Tử-Nha, tên chữ là Lữ-Vọng.
Theo sử Tàu, trước khi Tây Bá muốn đánh vua Trụ, có mở một cuộc đi săn . Một nhà tiên-tri báo trước rằng, vua chẳng săn được thú, mà sẽ gặp một vị thần tướng.
Thật quả đến gành sông Vị, vua gặp một ông già đang ngồi câu. Vua bèn hỏi, ông đối đáp rất trôi chảy minh chánh. Vua bèn nói : tổ tiên có dặn trước rằng số nhà Châu sẽ phát-đạt khi gặp được một người hiền. Cho nên Tây Bá gọi ông già câu ấy là Thái-Công Vọng. Lữ Vọng giúp Tây Bá và con là Phát (Võ Vương), đến 90 tuổi mới mất
Y Doãn: Một vị Khai-quốc công -thần nhà Thương, giúp vua Thang đánh vua Kiệt nhà Hạ mà lập nên nhà Thương. Ông cày ruộng ở đất sằn mà chí vẫn định giúp vua làm nên thái-bình như đời Ngiêu Thuấn.
Bất tri nhi bất uẩn: do câu :
nhân bất tri nhi bất uẩn,
bất diệc quân-tử Hồ ?
(Luận ngữ),
nghĩa là : Người ta không biết sức của mình, mà mình không lấy làm giận, chẳng cũng là bực quân-tử ru ?
hữu đức tất hữu lân: Có đức ắt có láng giềng.
Sớm mười hai ...: Tích Cam La mới có mười hai tuổi được phong làm thượng Khanh đời Tần Thỉ Hoàng. Ý nói : Nếu chưa được hiển đạt như Cam LA thì...
[Back to the top]
muộn bảy mươi mốt ...: Tích Bá Lý Hề, bảy mươi mốt tuổi mới làm nên quan tướng giúp vua Tần Mục Công làn nên nghiệp bá.
Tồn ư trung bất chánh, ắt chẳng lành: Còn giữ ở trong lòng mà chẳng ngay...
phát ư ngoại bất hòa ...: Phát biểu ra ngoài chẳng hoà-thuận...
ba ngàn: Theo Phật-giáo có ba ngàn thế giới.
một bầu: Tích Phí Trường Phòng đời Hậu Hán rình thấy ông già bán thuốc ngoài chợ, có treo một cái bầu. Trường Phòng nghi là dị-nhơn mới xin ông già cho phép vô bầu coi. Chừng vô thì thấy đủ cả nhơn-gian thế-giới.
sáu đạo: Sáu đường đi đầu thai. Theo thuyết Phật, người chết sẽ theo việc làm của mình lúc sống mà đi đầu thai. Có sáu nẻo:
Thiên đạo : trời (thiên-đàng)
Nhơn đạo : người
A-tu la đạo : thần thánh
Quỷ đạo : quỷ
Súc sanh đạo : thú vật
Địa-ngục đạo : địa-ngục
tam-giới: ba cõi. Theo đạo Phật là :
- dục-giới : cõi ở của mọi loài còn có tình-dục.
- sắc-giới : cõi ở của mọi loài trừ bỏ được tình dục nhưng vẫn còn hình sắc
- vô-sắc-giới : cõi ở của mọi loài không còn sắc tướng và được hưởng cái thú " vô thượng".
Theo đạo Lão, Tam giới là :
- Thượng giới (trời)
- Trung-giới (đất)
- Hạ-giới (nước).
Non Bồng (bồng-lai): - tên một trong ba hòn núi ở đảo Bột-Hải : Bồng-Lai, Bồng-Sơn, Doanh-Châu.
Theo Thần-thoại trung-Hoa, núi Bồng-Lai là chỗ tiên ở, cảnh tiên Đời Tần Thỉ-Hoàng có cho người đi tìm thuốc trường-sanh ở đó.
Bát Tiên: Tám vị Tiên đắc đạo ở núi Bồng-Lai :
1- Hớn Chung Ly,
2- Trương Quả Lão,
3- Hàn Tương Tử,
4- Lý Thiết Quài,
5- Tào Quốc Cựu,
6- Lữ Đông Tân,
7- Hà Tiên Cô,
8- Lâm Thái Hoà.
Núi Thương-Lãnh... tứ hạo: ( hạo : sáng-sủa như lúc mặt trời mọc). Khoảng đầu đời Hớn có bốn ông già ẩn-sĩ ở núi Thương-sơn, đời gọi là "Thương-sơn tứ hạo" :
- Đông Viên Công ;
- Kỳ Lý Quý ;
- Hạ Huỳnh Công ;
- Dụng Lý tiên-sanh.
Vua Hớn Cao-tổ sai sứ triệu mà không chịu ra.
[Back to the top]
tiếng chuông giục khách lui thuyền: Đường thi có câu :
Cô tô thành ngoại Hàn sơn tự,
Dạ bán chung-thinh đáo khách thuyền.
(Khách thuyền qua bến Cô-Tô,
nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn-Sơn).
vui chiếc dép trương buồm nương gió: Nước Ngụy đời Lương Võ-Đế, người Tống Vân đi sứ qua Tây-Vực . Dọc đường gặp Dharma ngồi trên một chiếc dép (?) vượt ngoài khơi. Tống về báo tự-sự với Lương Võ Đế . Vua ra lệnh quật mồ của Dharma, thấy di-thể chỉ mang có một chiếc dép.
nước Ma-ha: Có lẽ do chữ Mahabhadrâ (sông Gange). Ai cũng biết sông Gange (Hằng-Hà) đối với người Ấn-Độ là một sông linh thiêng . Các vị bồ-tát dùng nước sông Hằng làm phép để tẩy-uế, rửa sạch trần-luỵ.
Đạo thương người ...: Là thuyết bác-ái của Phật Thích-Ca, giáo-chủ đạo Phật.
nhân cứu chúng ...Bồ-Tát.: Phật Quan thế-Âm Bồ-tát, lòng từ-bi quảng-đại, hay cứu khổ cho chúng sanh .
Đấng Tam Hoàng: Ba vì vua thánh của nước Tàu đời Thượng-cổ:
Thiên Hoàng,
Địa Hoàng,
Nhơn Hoàng.
Có sách chép : Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế. ( 2852-2592 tr.D.T.)
Ngũ Đế: Năm vì vua thánh của nước Tàu sau Tam Hoàng . Có sách chép là:
Thái Hiệu,
HoàngĐế,
Thần Nông,
Thiếu Hiệu,
Chuyên Húc.
Hoặc là : Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.
vua Nghiêu áo vải quần gai: Vua Nghiêu tánh chất-phác, tiết kiệm, vẫn mặc áo vải quần gai.
vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt: Vua Thuấn lúc còn nghèo bị cha là Cổ Tẩu bắt đi cày ruộng ở núi Lịch-Sơn.
Ăn hẩm-hút, thương vua Võ: Đức Khổng-Tử nói : Vua Hạ Võ ăn uống đạm bạc, mặc áo xấu-xa, ở cửa nhà thấp nhỏ mà biết hiếu kính với quỷ-thần.
[Back to the top]
ở lao tù, thương vua Văn ...: Vua Văn-Vương lúc làm Tây Bá bị Sùng Hầu Hổ gièm với vua Trụ, Vua Trụ đem giam ông vào ngục Dũ-Lý suốt bảy năm.
Châu Công...mắc tiếng gièm pha: Châu Công là con vua Văn-Vương, lại là em của Võ Vương và chú của Thành-Vương.
Khi Võ-Vương mất, Thành-Vương nối ngôi, vì còn nhỏ nên Châu Công làm nhiếp-chánh lo bỉnh chính. Bọn Quản Thúc là em của Châu Công ganh tị nên gièm với vua là quan nhiếp-chánh muốn giết vua để đoạt ngôi. Sau chúng nổi lên làm loạn. Châu Công cầm quân đánh thắng bọn ấy, lo củng-cố ngai vàng của Thành-Vương, tỏ ra hết sức trung-thành.
Khổng-Tử ... ghe phen hoạn nạn: Khổng tử giúp nước Lỗ cường thạnh. Vua Tề Cảnh-Công sợ Lỗ mạnh sẽ xâm chiếm bèn chọn gái tốt dâng vua Lỗ Định-Công để Ly-gián Khổng-Tử.
Khổng-Tử thấy vua Lỗ ham mê nữ sắc bỏ đi sang nước vệ, gần địa-giới nước Tồng bị người Khuông Ấp nhìn lầm ngỡ Dương Hổ nên vây. Sau Khổng-tử bỏ nước Vệ sang nước Tống giảng lễ với học-trò ở dưới gốc cây. Quan Tư-mã là Hoàn Khôi đem lòng ghét Khổng-Tử, sai người đốn cây và tìm giết, Khổng-Tử đổi dạng trốn sang nước Trịnh. Sau lại sang nước Trần và nước Sái ; nửa đường, vua sở Chiêu-Vương nghe tin, cho người đón. Ức lòng, quan đại-phu nước Trần và nước sái đem quân vây khổng-Tử. Bị vây ba ngày tuyệt lương, sau nhờ sứ nước Sở giải cứu đem về. Thật là trang thánh-nhơn mà gặp nhiều hoạn-nạn.
mấy kẻ mưu-thần nhà Hán ... chết oan: Mấy vị khai-quốc công -thần nhà Hán như : Hàn Tín, Bành Việt ...bị vua Cao-Tổ Lưu Bang nghi làm phản đem giết đi.
những người văn-học đời Tần ... chôn sống: Vua Tần Thỉ-Hoàng hung-bạo, muốn bỏ phong-tục cũ, mở đạo mới cho dân-gian, bị nho sĩ phản-đối kịch-liệt, nên đốt sách của Khổng-giáo và chôn sống 400 người học nho.
Gia-Cát: Gia-Cát Lượng tự Khổng-Minh, hiệu Ngọa-Long (181-234). Trang tài lược đời Tam qiuốc. trước ở ẩn Nam-Dương, tại Ngọa-Long-Cang, sau ra làm quân-sư cho Lưu Bị nhà Thục để rán khôi phục Hớn-thất. Nhưng vì vận Hớn đã suy, không thành công được.
Nhạc Phi ... không hòa bị hại: Tướng tài đời Tống Huy-Tôn 91120-1178), đem binh đi đánh Bắc Liêu. trong trào có Tần Cối vì ganh công của Nhạc Phi nên đề-nghị muốn hoà, xin vua hạ chỉ triệu Nhạc Phi về. Nhưng Nhạc không chịu hoà. Tần Cối gièm với vua là Nhạc có chí khác và mạo chiếu làm tội giết Nhạc Phi.
nằm giá: Vương Tường đời Tần, khi nghe mẹ muốn ăn cá lý-ngư mà ngoài chợ không ai bán vì tiết đông, giá lạnh đặc sông, bèn ra nằm bờ sông, đợi tuyết tan mà bắt cho được cá. Lòng hiếu-thảo của ông được toại nguyện.
khóc măng: Ngô Mạnh Tông đời tần là người con rất có hiếu. Đương mùa đông, mẹ muốn ăn măng trúc. Mạnh Tông kiếm không đặng , ôm cây trúc mà khóc, trúc tự nhiên nẩy măng ra.
ải Bắc ... kẻ chăn dê: Tô Võ cũng gọi là Tô Tử Khanh, tôi trung của Hớn Võ Đế, đi sứ Hung-Nô. Chúa Hung-nô là thuyền Vu ép phải hàng phục, nhưng Tô Võ không chịu. Thuyền Vu giận bắt Tô Võ bỏ vô hang ba ngày không cho ăn uống để cho chết. Nhưng Tô Võ nhờ nuốt giọt sương trên ngù cờ uống thấm giọng nên không chết. Vua Hung-Nô cho tô Võ là thần, không dám làm hại, chỉ đày ra ải bắc chăn dê, dạy rằng chừng nào dê đực đẻ mới cho về xứ. Mười chín năm sau, chừng Thuyền Vu giải hoà với nhà Hớn, Tô Võ mới được tha về.
[Back to the top]
cổ câm: tức là Cổ kim : xưa và nay.
Đổng Trác: Châu mục tây Lương đời hán Linh-Đế. Năm 167 sau D.T., đánh đuổi bọn Tây-Tạng. sau nhà Đông Hớn bị bọn hoạn quan Thập-Thường-thị lộng quyền, Đổng Trác được Hà tấn triệu về trào dẹp bọn chúng.
Đổng Trác đắc thế tung-hoành, mưu bỏ vua cướp nước, làm nhiều việc bạo ngược : dời kinh-đô nhà Hán ở Lạc-Dương qua Trường-an. Đổng Trác bị hạ sát năm 192.
Hà Tấn vô mưu: Nhờ uy-thế của chị làm Hoàng-Hậu, Hà tấn làm tới chức Đô-đốc. Khi vua Linh-Đế thăng-hà, ông thấy bọn hoạn-quan lộng-quyền mưu triệu Đổng Trác về dẹp bọn chúng, nhưng mưu ấy bại lộ, ông bị bọn hoạn-quan Trương Nhượng dụ vào cung ám sát.
Khuyển Nhung ...Thân hầu thất kế: Khuyển Nhung là một dân-tộc ở phía Tây bắc nước Tàu. Vua U-vương nhà Tây-Châu mê nàng Bao Tự bỏ ngôi thái-tử của nghi Cửu.
Thân Hầu, cậu của Nghi Cửu, dâng sớ can vua, nhưng U-vương nổi giận sai tướng đánh Thân Hầu.
Vì nước nhỏ sợ cự không nổi, nên Thân Hầu cầu viện binh rợ Khuyển-Nhung để binh-vực thái-tử. Nhưng Nhung chúa lại đánh giết U-vương, chiếm Bao-tự, ngoài việc tóm thâu vàng bạc không xiết kể. Thân Hầu phải cầu-cứu chư-hầu mới dẹp được. Tây-kinh vì đó mà tan nát.
Vị-Thủy: Nước sông Vị. Sông Vị phát-nguyên ở tỉnh Cam-túc chảy qua phần đất Thiểm-tây vào sông Hoàng-Hà.
Thương-quân hành chánh chẳng lành: Vệ Ưởng làm tướng vua Tần Hiếu-Công được phong tước Thương-quân; ra điều luật rất nghiêm-khắc. Ưởng thường thân-hành đến sông Vị tra xét phạm nhơn. Có lần một ngày mà chém đầu hơn bảy trăm phạm nhơn, máu chảy đỏ cả nước sông Vị. Sau ông bị ám-sát năm 338 trước D.T.
Trường-Bình: hay Trường-Thành, chỗ Bạch Khởi diệt đạo binh của Triệu.
Bạch Khởi ra oai rất dữ: Danh tướng nhà Tần, Bạch Khởi đánh tan quân Triệu Quát tại Trường-Bình, chiêu hàng hơn 40 vạn quân Triệu. Vì sợ chúng sanh biến, bèn mật-lịnh quân Tần dùng vải trắng phủ đầu, đêm đến gặp người không vải trắng thì giết. Bốn mươi vạn quân Triệu một đêm đều bị giết hết, máu chảy thành sông, thây chất thành núi.
Hớn dầu yếu...Lữ làm quái-gở.: Cao-Tổ nhà Hán thăng-hà, truyền ngôi cho con là Huệ-Đế. Huệ-Đế tánh nhơn nhu, mẹ là Lữ Thái-Hậu lâm-trào bỉnh chánh, làm loạn nhà Hán, lắm sự quái-gở.
Sách chép rằng : mặc dầu con bà được cao-tổ truyền ngôi, Lữ Thái-hậu không dứt bỏ lòng ganh-ghét. Bà bỏ thuốc độc giết chết con bà hậu phi và bắt bà hậu phi đem móc mắt, xẻo tai, chặt chơn tay, đem bỏ ngoài đống phân, rồi kêu Huệ-Đế ra xem. Trông thấy một trang quốc-sắc thiên-hương, người sủng-ái của cha ngày nay chỉ là đống thịt tồi-tàn, Huệ-Đế kinh hồn mất trí.
Đường chưa suy ... Võ dám lăng loàn: Võ-Hậu tên Võ Tắc Thiên, từ hàng thứ-dân được trở nên một phi sủng-ái của vua Đường Thái-Tông (627-650). Thái-Tông mất, bà được vua Cao-Tông quý-trọng chọn làm chánh-hậu. Rồi đó Võ-Hậu lăng-loàn đến nỗi bỏ thuốc cho vua Cao-Tông chết, phế thái-tử, tự lập làm vua, lấy hiệu là Châu Hoàng-Đế, khai trừ các trung-thần, làm loạn nhà Đường. Bị lật đổ và thác năm 705.
[Back to the top]
Tội Võ đà xấp-xỉ Lộc san: An Lộc Sơn là con nuôi của Dương quý-phi, là người được Đường Minh-Hoàng (712-755) sủng-ái. Vì vậy nên An Lộc Sơn được Minh-Hoàng trao binh quyền; sau y làm phản, hãm kinh-đô nhà Đường.
Vậy đối với nhà Đường, tội của Võ-Hậu cũng gần bằng tội của An Lộc Sơn.
tội Lữ cũng rắp-ranh Vương Mãng: Vương Mãng rốt đời Hán, làm quan đại-thần. Thừa dịp đem con gả cho vua Bình-Đế. Sau phế đông-cung mà soán ngôi, làm loạn nhà Hán. Làm vua không bao lâu, bị Lưu Tú là dòng Tông-thất, hội quân phục quốc, bắt giết.
Vậy đối với nhà Hán, tội của Lữ Thái-Hậu cũng gần bằng tội của Vương Mãng.
dâm-kiêu: Hoang-dâm và ngạo-mạn
yêu thân: Yêu người người trong thân thuộc ( cha, mẹ, anh em).
Mạnh-Tử nói : người nhân trước hết phải yêu thân (cha, mẹ, anh em) rồi yêu người, sau cùng mới yêu đến loài vật
tín-thành: thành thật, tin cẩn
trượng-phu: Người đàn-ông đứng-đắn.
trác-trác: Đứng thẳng-thắn, lòng ngay chánh, không tà vạy.
Yêu gan sắt: Đức Khổng-Tử nói rằng :
Chẳng hiểu là bền sao mài mà chẳng nát ; chẳng hiểu là trắng sao nhuộm mà chẳng đen. (Luận ngữ)
Tỷ với người đức-hạnh, chân kiên-trình, chẳng bị vật ngoài làm loạn.
Tiết lạnh lẽo: Đức Khổng-Tử nói : "Năm tới mùa lạnh mới hay cây cây tòng, cây bá là héo sao ? "
Tỷ với người người đức-hạnh kiên-trinh, gặp lúc nguy-hiểm cũng chẳng núng.
kỳ ký: Kỳ là ngựa giống sang. Ký là ngựa thiên-lý, có đốm rất đẹp. Kỳ, ký là hai con ngựa hay, có sức chạy ngàn dặm một ngày. Kỳ ký ruổi giong, do câu "Kỳ ký sinh trường đồ" là " ngựa kỳ ngựa ký ruổi giòng trên đường dài".
Tỷ vói người hiền tài gánh vác được việc đời.
[Back to the top]
trung-dung: Thầy Tử-Tư, cháu đức Khổng-Tử, lo rằng đạo của ngài thất truyền nên soạn ra bộ Trung-Dung.
Đạo Trung-dung là đạo phải trung chánh, xử lẽ nào cũng đáng, không thái-quá, không bất-cập.
nhân-ngỡi: (nhơn nghĩa) .Nhơn là thương người, nghĩa là làm điều mình phải làm.
tuệ trí: Thông minh linh-hoạt.
lăng-nhăng: (lăng-quăng). Xằng bậy.
Kiệt: Kiệt ( 1818-1782 tr.D.T.). Vua Kiệt nhà hạ ( 2205-1782 tr.D.T.), sa mê Muội Hỷ,cho xây một cái hồ chứa rượu, xung quanh dọn thịt . Hễ ông ra lịnh thì ba ngàn cung-phi nhào xuống hồ ấy ăn và uống. Bỏ nát cang-thường, bị Thành Thang lấy nước.
Lệ: Lệ (878-828 tr. D.T.). Vua nhà Châu (1134-247 tr.D.T.), Không tu nhân-chánh, bạo-ngược, bỏ nát cang-thường.
U: U (781-771 tr.D.T.) .Vua nhà Châu say đắm nàng Bao Tự; một hôm Bao Tự buồn, vua hội quần-thần, hỏi có kế chi làm nàng khỏi u-sầu thì trọng thưởng. Quốc-Công khuyên vua cho nổi lửa ở núi Ly-sơn để gạt chư-hầu.
Các chư-hầu trông thấy lửa ngất trời và nghe trống hiệu ầm-ầm, ngỡ vua bị giặc đến cướp phá bèn vội-vàng dẫn quân cứu giá. Đến Ly-Sơn, thấy U-vương cùng Bao Tự uống rượu vui-vẻ, chẳng có gì, chư-hầu xẻn-lẻn trở về. Bao Tự trên lầu thấy chư-hầu bị gạt, thích chí vỗ tay cười sằng-sặc.
Về sau vua bị giặc Khuyển-Nhung vây khổn, đốt lửa núi Ly-Sơn ; sợ bị gạt nữa, nên không nột chư-hầu nào tiếp cứu. Vì vậy vua phải bị hại.
Vua Kiệt nhà Hạ, vua Trụ nhà thương, và vua Lệ, vua U nhà châu, đều là những vua bạo-ngược.
Tứ-hung: Đời Đường Ngu, có bốn đứa dữ là :
Cùng Kỳ tức Cộng Công,
Hồn tức Hoan Đâu,
Thao Thiết tức Tam Miêu và
Đào Ngột tức Cổn,
đời kêu đó là Tứ Hung. Bị vua thuấn đày đi bốn nơi xa.
Ngũ-quỷ: Đời Tống có bọn
Vương Khâm Nhược,
Đinh Vị,
Lâm Đặc,
Trần Bành Niê
n,
LưuThừa Khuê
gian-tà hiểm nguy, đời gọi là Ngũ quỷ.
cầu mị mà giết con: Dịch Nha là tên nấu bếp rất khéo của Tê Hoàn-Công đời Chiến-Quốc. Vua nói đùa : " Các giống điểu thú trùng ngư, ta ăn gần đủ mùi, chỉ có thịt người thì chưa biết vị nó ra thế nào? "
Dịch Nha muốn cầu mị với vua, về giết đứa con ba tuổi, làm món ăn dâng vua. Tề Hoàn-Công ăn ngon, hỏi ra mới biết, cho là Dịch Nha yêu mình, có ý tin dùng.
Sau Dịch Nha mưu phản, bỏ vua tề Hoàn-Công trong hầm đá hơn nửa tháng, đói khát mà chết.
[Back to the top]
tham sang mà hại vợ: Ngô Khởi người nước Vệ đời Đông-Châu, làm quan nước Lỗ, có người vợ nước Tề.
Đến khi nước Tề đánh nước Lỗ. Tể-Tướng Công-Nghi Hưu tiến-cử Ngô Khởi cho Lỗ-Hầu, nhưng vua Lỗ nghi Khởi không hết lòng bởi bởi vợ y là người nước Tề.
Ngô Khởi biết được, về giết vợ và đem đầu dâng Lỗ-Hầu, làm đại-tướng, lui được binh Tề.
gian phu dâm phụ: Gian phu : Đàn-ông thông gian với người đàn-bà không phải vợ mình. Dâm phụ : Đàn bà lấy trai.
hay co hay cú: Co-cú. hay gây-gổ, quạu-quọ.
Y Lữ: Y-Doãn và Lữ Thượng tức thái Công vọng.
từ hiếu: Cha hiền con thảo.
chưng giường phụ-tử: -(chưng : chi; giường : cương ; cang ), là "Phụ tử chi cang " : giềng mối giữa cha con.
câu xướng tuỳ: Do câu "Phu xướng phụ tuỳ" : chồng xướng vợ theo ; tức là vợ chồng hoà-thuận
muốn đễ muốn cung: Em kính yêu bực anh gọi là đễ. Cung là kính cẩn.
hiền ngõ: Có đức-hạnh tài-năng hơn người.
ghé: để mắt đến.
[Back to the top]
Lưới thỏ giăng ...củ-củ võ-phu.: Củ : mạnh khoẻ. Củ-củ võ-phu : mạnh-mẽ bạo dạn.
Kinh Thi có thơ "Thố La" khen vua Văn-Vương nhà Châu khéo giáo-hoá người trong nước đến những người đi giăng lưới thỏ mà cũng có tài võ khoẻ mạnh.
gót lân xéo ...cơn-chơn công-tử: Xéo : đạp lên trên. Lân chỉ : ngón chân con kỳ lân ; nghĩa bóng, là con cháu nhà vua.
kinh-bang: Trị nước
hanh-thông: Thông đạt, gặp được vận may.
tế-thế: Cứu đời
truân-kiển: (truân : khó khăn ; kiển : què, khó-khăn). Buổi khó khăn.
Đá Tinh-Vệ: Tương truyền : con gái vua Viêm-Đế ngày xưa vượt biển chết chìm tại biển Đông, hoá ra chim Tinh-Vệ, ngày ngày tha dá lấp biển cho hả giận. Nghĩa bóng : người có chí trả thù.
đất nghĩ-phù: (Nghĩ : nghị, là con kiến ; nghĩ thuật : phương-pháp của con kiến làm ổ. Ổ kiến, ổ mối đùn đất lên thành đống). Nghĩa bóng : người có chí học.
Quách Khai: Sủng-thần của vua nước Triệu thời Chiến-Quốc, hay ăn hối-lộ.
Vua Tần đánh nước Triệu bị tướng Triệu là Liêm Pha chống giữ, đánh không thắng, bèn sai Vương Ngao đem một ngàn cân vàng đút lót Quách Khai để làm kế Ly-gián. Quách Khai bèn đặt điều gièm cho Liêm Pha bị thay, sau cũng gièm đại-tướng Lý Mục bị hại. Nước Triệu vì mất tướng tài nên bị Tần diệt và Quách Khai được vua Tần phong làm thượng khanh.
Vì tích-trữ vàng nhiều không thể đem theo, nên sau việc xong . Quách Khai xin vua Tần về Triệu vận-tải gia-tài, vàng chở mấy xe; giữa đường bị kẻ cướp giết chết.
Lâm Phủ ...báng huỷ: Báng huỷ hoặc huỷ báng là nói xấu người ta.
Lý Lâm Phủ làm tướng đời Đường oán ghét người văn học, ngoài miệng nói ngon nói ngọt mà trong lòng nham-hiểm lo hãm hại. Ngừơi đời gọi y là "khẩu mật, phúc kiếm" ( miệng mật, gươm lòng ).
[Back to the top]
Sợ sắc tốt ...người Sùng: Theo ông Dương Mạnh Huy thì vua Đường Cao-Tông say đắm nhan sắc nàng Võ Chiêu-Nghi nên sách lập Hoàng-hậu, Diêu Sùng can mà bị tội.
Lại có tích Thạch Sùng bị hại vì sắc đẹp của người thiếp tên Lục Châu .Tôn Tú muốn được Lục Châu đến cầu với sùng. Song Lục Châu không chịu, nhảy lầu tự tận. Tôn Tú giận bèn gièm với Triệu Vương Luân nên Thạch Sùng bị giết.
sợ báu kỳ ..gã Viện mắc nàn: (báu kỳ : đồ vật báu, kỳ lạ).
Mã Viện nhà Hán khi qua Việt Nam đánh hai Bà Trưng (39-43) bị nước độc phải bịnh, nhờ ăn cháo nấu với bột ý-dĩ (hột bo-bo) mà hết. Nên khi về xứ chở năm xe ý-dĩ. Có kẻ gièm vua, vu cho Mã Viện chở đồ trân-châu, vì vậy Viện bị tội.
Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng: Tô Tần đời Chiến-Quốc đi tìm Quỷ-cốc tiên-sanh học. Thành nghề, đi châu du khắp xứ mà không ai dùng, nên nghèo khổ. Về nhà mẹ, vợ và chị dâu, không ai tiếp rước.
Sau thời vận tới, được làm tướng sáu nước, đeo sáu cái ấn vàng. khi đó về nhà, cả nhà đều phủ-phục.
Tô Tần hỏi ; cớ sao ngày trước khinh, mà ngày nay trọng như vậy ? Chị dâu đáp :"Bởi ngày nay thấy chú có ngôi cao và nhiều vàng".
tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng : Phạm tăng, người ở kỳ-Cổ-san, giúp Tây Sở Bá-vương Hạng Võ, có xúi chúa giết Bái Công, kẻo sau Bái Công tranh thiên-hạ.
Hạng Võ không nghe, tha Bái Công.
Nên Trương Lương, mưu-thần của Bái Công, tới tạ Hạng Võ một đôi ngọc trắng, và dâng Phạm Tăng đôi chén ngọc. Phạm Tăng nổi giận nói : "Tranh thiên-hạ của quân vương chắc là Bái Công ". Bèn cầm gươm đánh bể chén ngọc.
Thuyền họ Trương ở khô: Đời Hớn có rợ Hung-Nô xâm-phạm Trung-Quốc. Vua sai Trương Khiêm đáp thuyền đi sứ. Ai nấy đều sợ cho Trương Khiêm lại bị họa như Tô Võ.
đất nhà Kỷ ...sợ trời sập mái.: Nước Kỷ là nước nhỏ thời Xuân-thu, bị nước Sở diệt. ( tức là huyện Kỷ, tỉnh Hà-Nam ngày nay). Xưa có người nước Kỷ lo trời sập. nghĩa là ; họa hoạn chưa tới mà mình cứ lo trước, lo sợ vẩn-vơ.
Sợ giá mỏng, nước nhà cơ bại: Do câu : "Chiến chiến căng căng như lâm thâm uyên, như lý bạc băng" (nươm-nớp chăm chăm như tới vực sâu, như đạp giá mỏng).
Vua Cao-tông nhà Thương vận nước suy-vi, thường lo sợ, như khi đến vực sâu hoặc đi trên gía mỏng.
sợ móc nhiều, thân gái mình gầy: Con gái đời vua Châu văn giữ nết kiên-trinh, đi đâu sợ kẻ trai cường bạo xâm-phạm, nên làm thơ "Hàng Lộ" nói thác vì sợ đường nhiều sương móc.
bốn hay: Dương Chấn người đất Quan-Tây đời Hớn làm quan Thái-uý, tánh thanh-liêm.
Hồi là thứ-sử có tiến dẫn Vương Mật làm lịnh-doãn huyện Xương-Ấp. Nên khi đi ngang Xương-Ấp, vì trời tối có nghỉ tạm một đêm. Vương Mật mới lén đem mười lượng vàng đền ơn.
Ông Dương Chấn mới trách : Ta biết tài ngươi mà ngươi không biết lòng ta.
- Đêm hôm khuya-khoắt có ai hay mà ngài sợ.
- Ông Dương Chấn đáp : "Sáng thì có trời biết, tối thì có thần soi biết; trong có ta biết, ngoài có ông biết. Chỗ biết có nhiều sao gọi rằng không ai biết ".
Khổng Phu-tử những dạy ba điều sợ: Đức Khổng-Tử dạy rằng :"Người quân-tử có ba điều sợ : sợ trời, sợ đấng đại nhơn, sợ lời nói đức thánh nhơn . (Luận Ngữ).
[Back to the top]
Sợ vọt vắn, chưa mau chơn ngựa: Các bổn đều chép :"Sợ bụt vắn chưa mau chơn ngựa, sợ vách thưa còn lậu hơi sư".
Theo ông Dương Mạnh Huy thì bởi sao lục chép ở bổn chữ nôm xưa họa có khi sai lầm chăng. Hai câu ấy có lẽ là "Sợ vọt vắn chưa thấu bụng ngựa", bởi Bắc Sử có câu
"Tiên tuy trường trường bất cập mã phúc", là"Vọt (roi) dẫu dài chẳng thấu bụng ngựa", ý nói thế-lực mình không thể quản-trị thấu phương xa ; và câu
"Sợ vách thưa còn lậu hơi sương", bởi câu "Khủng kỳ bích lậu nhi sương sâm dã", là "Sợ vách thưa mà sương lọt vô", ý nói cơ sự không cẩn-mật mà để tiết-lậu ra thì hư mất việc.
Vì có hai điển đó nên chúng tôi mạn phép theo ý ấy mà đổi chữ bụt ra chữ vọt, chữ sư ra chữ sương như trên.
sợ mật tuy lành: Tục ngữ có câu : "Ngọt mật chết ruồi". Ý nói sợ kẻ tham lợi mà hại mạng.
sợ hoa chẳng độc: Ý nói sợ kẻ ham mê tửu sắc mà lụy thân.
Bờ giác-ngạn: (Cái bờ giác-ngộ). Theo sách Phật, tu đã đến nơi giác ngộ, tức như vượt qua biển tới bờ. tức là cõi Phật.
năm mang: Trong bảy tình còn mang lấy hết năm, chưa dứt được, thì sự tu-hành chưa dễ đặng đắc-quả.
phẫn-uất: Sự giận tức trong lòng không bày tỏ ra được.