Sãi Vãi với Nguyễn-Cư-Trinh

Sãi rằng:

170- Vãi này cũng lạ, chớ hỏi mà sầu.
Uổng năm dây đờn khảy tai trâu; hoài muôn hộc nước xao đầu vịt.
Sãi không có biết, Sãi chẳng có hay.
Ghé cho khỏi cánh tay, kẻo mà quang xuống vế.

Vãi rằng:

Sãi nầy thất lễ, vả lại bạc tình.
175- Chớ có thấy Vãi tu-hành, tưởng Vãi không thông thế-sự.
Đã hay rằng nam-tử, thì có chí kinh-luân;
Song le đấng phụ-nhân, cũng ghen tài tế-thế.
Kìa như Châu Thái-Tỷ, kinh còn khen đức rạng khuê-môn.
Nọ như Tống Tuyên-Nhơn, sử còn ngợi nữ trung Nghiêu, Thuấn.
180- Gái như Tạ Đạo Uẩn, gái mà hay vịnh tuyết thành thơ;
Gái như Thái Văn Cơ, gái mà biết phân cầm nên khúc.
Chương gián chúa khỏi vòng dật-dục, ấy là Đường Từ-Huệ thứ-phi.
Thơ cứu cha khỏi chốn tai nguy, nọ như Hớn Đề-Oanh thiếu-nữ.
Nam-tử nhiều trang nam-tử; phụ-nhân ghe đấng phụ-nhân.
185- Thuyền bách trôi, ngàn dặm hỡi băng-băng; sách sử để, muôn năm còn vặc-vặc.
Gái có tài có sắc; gái có đức có công.
Thuyền-quyên đâu dễ kém anh-hùng; ông Sãi nỡ phụ chi mụ Vãi.

Sãi rằng:

Thậm phải ! Thậm phải ! Mừng thay, mừng thay, mừng thay !
Khát hạn luống trông mây; ôm cầm mà gặp khách,
190- Chẳng cây cứng sao hay búa sắc; không đường dài nào biết ngựa hay.
Vậy thời Sãi vén mây ngút, phát chông-gai, đặng cho Vãi thấy trời xanh, tìm đường cả.
Hiếm chi điều lạ; biết mấy chuyện kỳ.
Kề tai lại mà nghe, ghé vú ra kẻo đụng.
Sãi muốn nói một chuyện xa-xa cho Vãi thủng, gẫm trong kinh chép đã thành xe;
195- Sãi muốn nói một chuyện gần gần cho Vãi nghe, gẫm trong Sử ghi đà nên Đống.
Truyện Hớn, truyện Đường, truyện Tống: truyện Thương, truyện Hạ, truyện Châu
Chuyện phu-tử làm đầu; chuyện quân-thần rất hệ.
Sãi muốn nói một chuyện : " Quân sử thần dĩ trung", Sãi lại sợ Mãng, Tào sanh oán.
200- Sãi muốn nói một chuyện : " Ví phụ chỉ ư từ" cho Vãi han, Sãi lại e ông Cổ Tẩu dức rằng ngày
Sãi muốn nói một chuyện : " Vi tử chỉ ư hiếu" cho Vãi hay, Sãi những sợ vua Tùy Dương chê rằng ngộ.
Sãi muốn nói một chuyện : " Vi nhân bất phú",
Sãi lại e thầy Nhan-Tử mắng rằng : khéo mở miệng mà tấn ơn.
Sãi muốn nói một chuyện : " Vi phú bất nhơn",
Sãi lại sợ anh Thạch Sùng trách rằng : khéo thổi lông mà tìm vít.
Sãi muốn nói một chuyện : "Tài tụ tắc dân tán" cho Vãi biết, thì Thương làm sao nên mất mà phải bày;
205- Sãi muốn nói một chuyện : "Tài tán tắc dân tụ" cho Vãi hay, thì Châu làm sao nên hưng mà phải thuyết.
Việc Vãi thì Vãi biết, việc Sãi thì Sãi hay;
Gắng công-phu mà tu luyện cho lâu ngày, đêm thanh vắng Sãi hãy nói cùng một chuyện.

Vãi rằng:

Ông nầy tu-luyện, có chí anh-hùng :
Thuộc sử-kinh chứa để đầy lòng; mang y-bát chơn truyền phải mặt.
210- Dầu chẳng "Vạn gia sanh Phật", cũng là "nhất lộ phước tinh".
Thời chưa nên, còn chờ đợi công-danh; vận dầu gặp, chắc hiển-dương thinh-giá

Sãi rằng:

Chữ phụ-nhơn nan hoá, mụ vãi biết là đâu?
Câu bên sông, Lữ còn chờ đợi công-hầu; cây ngoài nội, Doãn những mơ-màng Nghiêu Thuấn;
Bất tri nhi bất uẩn, hữu đức tất hữu lân.
215- Sớm mười hai, dầu chẳng đội đồng cân; muộn bảy mươi mốt, cũng đeo ấn tướng.
Công-danh chẳng tưởng, vì bịnh thất-tình.
Tồn ư trung bất chánh, ắt chẳng lành; phát ư ngoại bất hòa, thời thất tiết.
Tu dầu lòng chi thiết, Sãi vui trên trời rộng.
220- Vui nước biếc non xanh lộng-lộng; vui trăng thanh gió mát làu-làu.
Trong ba ngàn, Sãi vui để một bầu;
Ngoài sáu đạo, Sãi vui thông tam-giới. Non Bồng-Lai bước tới, Sãi vui với Bát Tiên;
Núi Thương-Lãnh tìm lên, Sãi vui cùng Từ Hạo.
Vui nhơn vui đạo, vui thánh vui hiền.
225- Vui tiếng chuông giục khách lui thuyền; vui chiếc dép trương buồm nương gió.
Lánh cõi tục, Sãi vui thuyền Bát-Nhã; rửa bụi trần, Sãi vui nước Ma-ha.
Đạo thương người, Sãi vui giáo Thích-Ca; nhân cứu chúng, Sãi vui lòng Bồ-Tát.
Vui một bình, một bát; vui một đạo, một hề.
Luận sự vui cho ngỏa cho nguê, chi bằng Sãi vui cùng mụ Vãi ?
230- Thêm bịnh nầy không cãi, sãi có bịnh hay thương.
Sãi thương Đấng Tam Hoàng; Sãi thương ngôi Ngũ Đế.
Thương vì hiếu vì đễ; thương vì đức vì tài.
Thương vua Nghiêu áo vải quần gai; thương vua Thuấn cày mây cuốc nguyệt.
Ăn hẩm-hút, thương vua Võ, thương càng chí thiết; ở lao tù, thương vua Văn, thương rất xót-xa.
235- Thương ông Châu Công, trung đã nên trung, còn mắc tiếng gièm-pha;thương đức Khổng-Tử, thánh đà nên thánh, hãy ghe phen hoạn-nạn.
Thương mấy kẻ mưu-thần nhà Hán, không tội mà chết oan; thương những người văn-học đời Tần, vô can mà chôn sống.
Thương Gia-Cát có tài lương-đống, gặp chúa chẳng phải thì;
Thương Nhạc Phi nên tướng ân-uy, không hòa mà bị hại.
Thương đi thương lại, thương chẳng có ngần
240- Ngồi đêm đông, thương người nằm giá khóc măng; lên aỉ Bắc, thương kẻ chăn dê uống tuyết.
Thương càng chí thiết, thương rất đỗi thương.
Thương cho khắp bốn phương, chi bằng thương mụ Vãi.
Song lòng nầy còn ngại, vì có bịnh giận dai.
Sãi giận phải, chẳng phải giận sai; Sãi giận thật, sãi không giận dối.
245- Sãi giận Sãi nhiều lầm nhiều lỗi; khi lỗi lầm, sãi một giận hoài.
Sãi giận Sãi ít đức it tài; tưởng tài đức, Sãi càng giận riết.
Sãi giận Sãi kinh-luân chẳng biết; Sãi giận Sãi thao-lược không hay.
Sãi giận Sãi : thờ quân vương chẳng hết lòng ngay; Sãi giận Sãi : ơn phụ mẫu chưa đền nghĩa thảo.
Tưởng trong nhơn-đạo; Sãi một giận căm;
250- Suy nghiệp cổ câm, Sãi thêm giận lắm.
Khi Đổng Trác lung-lăng nhà Hán, Sãi giận chàng Hà Tấn vô mưu.
Lúc Khuyển Nhung phá phách nhà Chu, Sãi giận gã Thân Hầu thất kế.
Máu sục-sục sôi dòng Vị-Thủy, giận Thương-quân hành chánh chẳng lành.
Thây chan-chan lấp nội Trường-Bình, giận Bạch Khởi ra oai rất dữ.
255- Hớn dầu yếu, giận Lữ làm quái-gở; Đường chưa suy, giận Võ dám lăng-loàn.
Tội Võ đà xấp-xỉ Lộc san; tội Lữ cũng rắp-ranh Vương Mãng.
Giận quanh giận quẩn, giận chẳng hay cùng.
Giận Vãi sao chẳng chút mến lòng, khiến sãi luống giận hoài mệt-mỏi.
Lại còn thêm một nỗi, sãi có bịnh hay yêu.
260- Chẳng yêu kẻ dâm-kiêu, chỉ yêu người trung-chánh.
Luận trong chơn tánh, đầu phải yêu thân; suy lý hành nhân, cuối thì yêu vật.
Yêu chí thiết, yêu người nhân-đức; yêu mặn nồng, yêu kẻ tín-thành.
Yêu trượng-phu lượng rộng thinh-thinh; yêu quân-tử lòng ngay trác-trác
265- Yêu gan sắt, mài mà chẳng nát; yêu lòng son, nhuộm cũng chẳng đen.
Yêu lỗ tai, lời trung chánh nghe quen; yêu con mắt, việc cổ kim dèm tỏ.
Tiết lạnh lẽo, Sãi yêu kỳ ký ruổi giong.
Con thảo cha, Sãi yêu bằng ngọc bằng vàng; tôi ngay chúa, Sãi yêu bằng châu bằng báu.
Luận như yêu đạo, thì Sãi yêu đạo trung-dung; suy như yêu lòng, thì Sãi yêu lòng nhân-ngỡi.

Vãi rằng:

270- Yêu mà nhà lợi, nước lợi, thiên hạ lợi, chi bằng yêu hiền ?
Yêu mà tài nên, đức nên, phú quý nên, chi bằng yêu sĩ ?
Yêu trang tuệ trí, yêu kẻ tài năng,
Như yêu sự lăng-nhăng, chi bằng yêu mụ Vãi ?
Tưởng chuyện nầy còn dại, bịnh hay ghét ở mình.
275- Ghét chẳng phải vô tình, ghét thiệt là hữu thú.
Ghét Kiệt, ghét Trụ; ghét Lệ, ghét U
Ghét nhân chánh chẳng tu, ghét cang thường nỡ bỏ.
Luận như ghét cho đủ, Sãi ghét đứa bất hiếu, bất trung;
Luận như ghét cho cùng, Sãi ghét đứa đại gian đại ác.
280- Ghét kỳ ghét quặc; ghét lạ ghét lùng.
Đọc Ngu Thơ ghét đảng Tứ-hung; coi Tống Sử, ghét bầy Ngũ-quỷ.
Ghét hoài, ghét huỷ; ghét ngọt, ghét ngon.
Ghét đứa cầu mị mà giết con, ghét đứa tham sang mà hại vợ.
Uốn lưỡi vạy, ghét người nước Sở; dạ tham-lam, ghét kẻ nước Tề.
285- Ghét đứa gian hay cậy thế cậy thì, ghét đứa dữ hay hại nhà hại nước.
Ghét thấy lợi mà chạy xuôi chạy ngược; ghét thấy nghĩa mà lo thiệt lo hơn.
Sãi ghét người ích-kỷ hại nhơn; Sãi ghét đứa gian phu dâm phụ.
Ghét đứa hay co hay cú; ghét người chẳng thiệt chẳng thà.
Ấy là ghét xưa nay mấy việc người ta, chưa bằng ghét Vãi sao vô tinh cùng Sãi.
290- Lại bịnh nầy khôn giải, về một nỗi muốn nhiều
Muốn trên cho sánh đức Thuấn Nghiêu; muốn dưới thảy nên tài Y Lữ.
Nghĩa từ hiếu, muốn chưng giường phụ-tử; câu xướng tuỳ, muốn xử đạo vợ chồng.
Anh với em, muốn đễ muốn cung; bậu với bạn, muốn tin muốn thật.
Người hiền ngõ, Sãi muốn gần cho thiệt rất; đứa gian tà, Sãi muốn tránh cho xa-xôi.
295- Mở quyển vàng, tay chẳng muốn thôi; thấy đức bạc, mắt không muốn ghé.
Trong làng xóm, Sãi muốn không đảng tham ô.
Lưới thỏ giăng, sãi muốn cho củ-củ võ-phu; gót lân xéo, Sãi muốn cho gót lân xéo
Muốn sao muốn dữ, muốn chẳng hay cùng ;
Muốn kinh-bang, chưa gặp vận hanh-thông; muốn tế-thế, hãy còn thời truân-kiển.
300- Đá Tinh-Vệ, muốn lấp sao cho cạn biển; đất nghĩ-phù, muốn đắp để nên non.
Muốn sao cho đều đặng vuông tròn, chi bằng muốn tu cùng mụ Vãi.
Những suy đi nghĩ lại, còn một bịnh sợ nhiều. Sợ Quách Khai hay đặt nên điều; sợ Lâm Phủ ngọt lời báng huỷ .
Sợ sắc tốt, hại người Sùng phải lụy; sợ báu kỳ, vu gã Viện mắc nàn.
305- Chị dâu sợ em vì sáu cái ấn vàng; tôi hiền sợ giặc vì một đôi ngọc trắng.
Sợ dài sợ vắn, sợ vẩn sợ vơ. Thuyền họ Trương ở khô, còn sợ sóng tràn bờ; đất nhà Kỷ vốn hẹp, hãy sợ trời sập mái.
Sợ giá mỏng, nước nhà cơ bại ; sợ móc nhiều, thân gái mình gầy.
Dương Quan-Tây còn sợ có bốn hay ; Khổng Phu-tử những dạy ba điều sợ.
310- Sợ vọt vắn, chưa mau chơn ngựa; sợ vách thưa, còn lậu hơi sương;
Sợ là sợ mật tuy lành mà ruồi những vấn-vương; sợ là sợ hoa chẳng độc mà bướm đà mê-mẩn.
Sợ càng ngơ càng ngẩn, sợ như dại như ngây.
Sợ tu chẳng trọn kiếp ông thầy, nữa rồi lại đụng nhằm mụ vãi.
Bờ giác-ngạn dễ đà đặng lại; bởi thất-tình còn hỡ năm mang .
315- Việc cổ kim chi xiết luận bàn; lời phẫn-uất chút ra tiêu-khiển.

| |
Chú thích: