Ngư Tiều Y thuật Vấn Đáp
Cao rằng: Mang tiếng sát nhân,
Án đày biển bắc, chung thân khó về.
Thói quen sinh nghiệp, tử nghề,
Cây rừng đủ đọt, hái về nấu cao.
3565- Thuốc cao là thuốc bán rao,
Người quen mua uống lẽ nào hại ai.
Bởi câu "vận kiển, thời quai",
Bệnh lành chẳng gặp, gặp loài bệnh hung.
Chẳng dè người mắc chứng phong,
3570- Thuốc cao cho uống vào lòng, chết tươi.
Nói ra non nước hổ ngươi,
Lá cây đủ đọt giết người bao nhiêu.
Bấy lâu Cao mượn đã nhiều,
Phen này cao trả, xiềng đeo cổ đầy.
3575- Bấy lâu Cao khiến làm thầy,
Phen này Cao bỏ theo bầy tội danh.
Ngư, Tiều nghe nói giật mình,
Nhớ đêm trong miễu, sự tình như đây.
Trạng Nguyên miễu bắt năm thầy,
3580- U Châu phần đất cách đây xa chừng.
Nay còn sót một thầy rừng,
Minh công phủ bắt lại trưng án đày,
Hỡi ôi một việc làm thầy,
U minh hai chữ, khó lây lất rồi.
3585- U thời có quỷ thần soi,
Minh thời có phép nước coi đề hình.
Tiều rằng : Nghề thuốc đặng tinh,
Nào lo ràng rạc khổ hình xiềng gông.
Bởi đời nhiều kẻ bất thông,
3590- Học không chỗ gốc, riêng trông cửa rèm.
Học nho vài chữ lem nhem,
"Mân" coi ra "kiển" "lỗ" nhèm ra "ngư".
Hoặc là dở sách y thư,
Luận đâu trị đó, hốt vơ lấy tiền.
3595- Hoặc là dở sách địa biên,
Nhắm phương coi hướng làm xiên cầu tài.
Có người vốn nghiệp sơ sài,
Đến đâu khua mỏ, khoe tài rằng hay.
Có người vốn nghiệp chẳng hay,
3600- Giả làm mặt biết lời bày chê khen.
Đua nhau trở trắng làm đen,
Hình hươu lốt chó, thói quen dối đời.
Mấy thằng láo xược theo chơi,
Ví như ếch giếng, thấy trời bao nhiêu.
3605- Trộm nghề tay khéo vẽ theo,
Vẽ hùm ra chó, để treo chúng cười.
E khi gặp rượu tiên mời,
Đãi cho vài chén, xui hơi cáo bầy.
Hai ta mắt đã thấy vầy,
3610- Học xin giữ gốc, làm thầy nhà ta.
Ngư rằng :Phược trước một khoa,
Tiểu nhi trăm chứng, chính tà cho tinh.
Lần lần rồi trị các kinh,
Học cho tột lẽ bệnh tình bách gia.
3615- Tiều rằng : Triền cũng một khoa,
Phụ nhân trăm chứng, trẻ già cho xong.
Sau rồi nhóm sách các dòng,
Học cho thấy đạo, thời lòng mới an.
Hai người nằm quán luận bàn,
3620- Sáng ngày cơm nước lên đàng Minh Châu.
Ngư, Tiều từ cảnh Minh Châu,
Về nơi quê quán, đi lâu hơn ngày.
Đến nhà con vợ mừng thay,
Tính đường đi lạc ba ngày có dư.
3625-Từ đây cải nghiệp tiều, ngư
Làm qua nghề thuốc tổ sư mở lòng,
Khi nên trời cũng giúp lòng,
Bệnh giàu cho của mua ròng sách y.
Sau dù có chỗ bất tri,
3630- Cùng nhau thay đổi liền đi Đan Kỳ.
Cùng đều nhờ phép Nhân Sư,
Dọn trong phép bí nghề y gia truyền.
Phụ khoa cho gã Thê Triền,
Đàn bà trăm chứng đều chuyên trị lành.
3635- Nhi khoa cho Tử Phuợc rành,
Trị trăm chứng trẻ, hậu sinh đều nhờ.
Hai thầy ra sức công thư.
Cám ơn Đạo Dẫn, trọn nhờ Nhập Môn.
Nghề hay tiếng nổi như cồn,
3640- Trị đâu lành đó, xa đồn danh y.
Hai thầy đặng chữ nho y,
Quan yêu dân chuộng, sách ghi giúp đời,
Đến đây tuyệt bút hết lời,
Nôm na một bản để lời hậu lai.
Hết
PHU LUC
Lư sơn mạch phú của Nguyễn Đình Chiểu
(Bệnh cơ bát yếu tổng mạch)
Từng nghe :
Mạch lý nhiệm màu
Bệnh cơ kỳ thú
Dù muôn hình biểu hiện rối ren,
Đem bát yếu tóm thâu đầy đủ.
Xem mạch tượng Phù trầm để phân biệt biểu lý; có lực là thực, không lực là hư;
Đếm nhịp đi trì sác để biết nhiệt hàn; dương chứng thì to, âm chứng thì nhỏ.
Mạch sắc dáng đi ngưng trệ, hẳn tinh thương huyết kém chi đây
Mạch hoạt nhịp chạy trơn tru, chắc khí động đàm sinh chính đó.
Loại mạch dương : phù đại hoạt sác, phải nén dương để bảo trợ cho âm;
Loại mạch âm : sác tiểu trầm trì, nên chế hàn để bổ ích cho hỏa.
Mạch ba bộ thấy đều phù đại mà kiêm sác : chứng trùng dương chí loạn cuồng;
Mạch sáu bộ thấy đều trầm tiể lại kiêm trì : chứng trùng âm chân tay lạnh giá.
Ngôi dương thấy âm mạch biểu lộ, đó là âm lấn tới dương cơ;
Ngôi âm mà dương mạch hiện hình, chính là dương tràn vào âm sở.
Mạch trầm tiểu : tổn thương vì thấp; trì : hàn, sác : nhiệt, phải phân chia.
Mạch phù đại : cảm mạo vì phong ; sắc : huyết, hoạt :đàm, nên hiểu rõ.
Nơi Khí khẩu mạch phô trường đại : nội thương khí huyết hư hao.
Chôn Nhân nghênh mạch mạnh khác thường : ngoài là bì phu cảm thụ.
Hàn thì ôn, nhiệt phải dùng lương ;
Thực thì tả, hư thì phải bổ.
Muốn tường mệnh sống thác ra sao,
Phải biết mạch thực hư cho tỏ ;
Phàm bệnh nhiệt mà mạch trì kiêm tiểu : mệnh khôn thoát khỏi ; đến chứng phát cuồng, ung độc cũng đáng hãi hùng.
Các chứng hàn mà mạch trầm kiêm sắc : bệnh chẳng hề lo; dù tả lỵ lậu băng thảy đều thanh thả.
Bệnh đã lâu, phù đại đáng ngờ ;
Bệnh mới mắc, liểu trầm nên sợ.
Trước khi đẻ mạch nên hoạt đại ; nhược bằng sắc tiểu chẳng hay.
Sau khi sinh mạch cốt tiểu trầm ; nếu thấy hồng dại là dở.
Người trai tráng phải cần hoạt đại, nếu sắc liểu mệnh chẳng lâu dài,
Cụ già nua đáng lẽ tiểu trầm, nếu phù đại thọ gần hết số.
Tiết xuân hạ khí dương đương thịnh, mạch nên hồng đại, mà liểu trầm chính thực suy đồi,
Mùa thu đông khí âm dương sinh, mạch phải liểu trầm thấy hoạt dại mắc vào bệnh khổ
Chứng sống thì thời với mạch thuận xuôi,
Chứng chết thì mạch với thời trái trở.
Chứng ngất bởi do đàm uất, mạch ba bộ tuy rằng ngừng tuyệt, có thể hồi sinh,
Người gầy da thịt róc khô, mạch sáu bộ dẫu có điều hoà, không hòng cứu gỡ.
Mạch hiện lo là tà thịnh bệnh tiến : cghứng tích tụ mạch này chẳng ngại, chứng hư lao thì mạch ấy chẳng lành.
Mạch đập nhỏ là khí yếu dương suy ; chứng hư tổn mạch đó thì lành, chứng tích tụ mạch này thì dữ.
Sắc với mạch thuận chiều, chính thực điềm vui,
Sắc với mạch trái đường,đó là chuyện gở.
Ngoài phù sác mà trong rỗng tuếch : âm lìa dương thoát dè chừng.
Thốn trầm trì mà xích tuyệt không : âm thoát dương cò biểu lộ,
Tiết xuân mộc khí can dương thịnh, hồng hoạt thì tốt, đỏa sắc không hay.
Buổi thu kim khí phế hợp thời, nhỏ nhẹ thì ưa, đại hồng chẳng khá.
Hạ : thuộc hỏa ứng vào tâm mạch, ghét nhỏ chìm mà thích đại phù.
Đông : hành thuỷ hợp với thận kinh, ghét hoạt đại mà ưa chìm nhỏ.
Mạch hoãn đại hợp vào tứ quý, hoạt trường là mạch trái mùa;
Mạch vượng sinh ứng với ngũ hành, thừa khắc là điều chẳng thú.
Khi trì khi sác là mạch quỷ yêu;
Lúc đoản lúc trường chính dòng ma cơ.
Cơ nguy dương thoát ; mạch thốn chẳng còn ;
Điềm dữ âm vong : mạch xích không có.
Quá trì hay quá sác : mạch hà du, ốc lậu đều thuộc chứng nguy
Quá hoạt hoặc quá nhanh : mạch tước trác, dũng tuyền cũng loài bệnhkhó.
Mạch tượng dù trì sác hay đại tiểu, nhưng không thái quá hay bất cập là vị khí hãy còn ;
Mặch tượng mà êm ái lại điều hòa, nếu không quá phù hay quá trầm là mạch bình chóng đỡ.
Phải xem có lực hay không ?
Nên xét còn thần chăng chớ !
Mạch và bệnh hợp tình, bệnh dù nguy nhưng chữa dễ dàng
Chứng với mạch trái chiều, chứng dầu dễ khó bề xoayxở.
Hướng Nam Bắc năm n2o không ứng, nên xét cho tường;
Người béo gầy mạch hợp phù trầm, phải phân cho tỏ.
Bát yếu đã rành,
Muôn bệnh đều rõ.
Chứng âm tuyệt chết ở buổi thu đông,
Chứng dương tuyệt chết ở mùa xuân hạ.
Dương tuyệt thì ban ngày tiêu vong,
Âm tuyệt thì ban đêm tàn tạ.
Thăng giáng chẳng đều, âm dương lìa thoát : chỉ trong một tháng qua đời,
Đập ngừng có mức, nhịp độ rõ ràng : sẽ hưởng trăm năm tuổi thọ.
Đã phù dại lại còn quá sác : loại độc dương rất phải đề phòng;
Đã tiểu trầm mà lại quá trí : chứng có âm liệu mà lo giữ.
Năm đáng ứng, mạch không tương ứng : tạng bị suy mà dương khí hư hao.
Nhịp chẳng rành, mạch chạy lì rì : huyết bị hàn nên dương khí ngưng tụ,
Phép mấu chốt do lòng lĩnh hội, hợp thâu chủ khách đôi đường,
Òc quán thông lưu ý xét suy, rành mạch chính tà mọi chỗ.
Sáu bộ mạch thảy đều rất sác, có nhịp ngừng là hàn khí triền miên.
Ba bộ mạch tuy thấy rất trì, có nhịp động là nhiệt là rực rỡ
Danh tuy chia gọi tám đường,
thực cũng quy về một ngả.
Lẽ thực hư thông hiểu đã tinh vi,
Cơ sinh tử quyết đoán không nghị ngờ.
Người sưu tầm nguyên bản bằng chữ Hán :
Nguyễn Trung Hòa
Người dịch : Nguyễn văn Bách
|
|