Phụ Lục
Bức thư của Thị-Kính gửi cho cha mẹ:
Ơn sơn-hải một chút chi chưa báo, ở sao đành dù đi có sao đành.
Phận liễu-bồ mười đấy cũng là không, Sống đã tủi dù thác đi cũng tủi.
Trăm hơn dặm bỗng xảy ra muôn kiếp,
Một tấm lòng xin gửi lại mươi hàng.
Thị Kính nay:
Hổ Phận nữ-nhi,
Nhờ nền phúc-ấm,
Từ kết tóc sớm trao giây tú-mạc, ba thu vừa mới ấm chăn loan.
Vì cắt râu nên nỗi sóng Ngân-hà, một khắc nào ngờ tan dịp thước.
Tòa Ngưu-Nữ đôi bên cách trở,
Khóm thung-huyên đòi-đoạn bồi-hồi.
Chốn phấn-hương thẹn với nước-non,
Đặt gánh hiếu phải sa rời dặm khách
Miền Bát-Nhã tìm vào mây khói,
Nương bè Từ cho vượt khỏi sông mê.
Đuốc quang-minh đốt cháy thành sầu,
Bể khổ-hạnh bỗng nảy lên bãi giác.
Cảnh Văn-Tụ mừng vui miền thứu-lĩnh,
Rảy cành dương chẳng bợn chút trần-ai.
Ả Thị-Mầu đơm đặt chuyện Vu-sơn,
Gầy vóc liễu đã cam lòng giả sở.
Thủa làm vợ để chồng ngờ thất tiết,
Lúc làm trai cho gái đổ oan tình.
Đoái nghĩ, ơn chín chữ cù-lao, xa-xôi chốc đã sáu thu, khoải-khoắc bận lòng khi đán-mộ.
Tưởng đến nỗi đôi bờ ly-biệt, nuôi-nấng gọi là một chút, viếng thăm thay mặt buổi thần-hôn,
Muôn phần bội bạc đã cam rồi,
Trăm lạy nghiêm từ xin ở lại
sơn-hải: núi và bể . Ý nói công cha mẹ như núi, như bể.
liễu-bồ: cây liễu và cây cỏ bồ, là hai thứ cây coi giáng yếu ớt, để ví đàn bà yếu ớt .
mười đấy cũng là không: Bởi câu thập nữ viết vô : có mười con gái cũng là không có con .
tú-mạc: màn thêu .
Ngân-hà: sông Ngân-hà ở trên trời.
dịp thước: dịp cầu của chim ô-thước bắc cho Ngưu lang Chức nữ sang với nhau .
Ngưu-Nữ: tức Ngưu lang và Chức nữ
Bát-Nhã: thanh-tịnh, tức cõi Phật .
bè Từ: tức Từ-Hàng bè của Phật để độ chúng-sinh .
sông mê: tức cõi phàm trần .