thốt-nhiên: Chợt cái... chứ không phải xuất nhiên, có lẽ vì nhận lầm chữ "thốt" ra chữ "xuất đơn"
thu quá đông qua: Câu này có bản chép "thu quá đông hoàn" thì lạc vận, có lẽ là thu quá đông đông qua nghĩa là đã hết cả năm.
so cung: Có bản chép so tơ...thì lạc vận.(trên vần bông).
Mặt âm-thầm mà bụng ủ-ê: Có bản chép " mặt âm-thầm bụng lại ủ-ê" cũng lạc vần.
tố nữ: cũng như Tố-ngà, tiếng gọi những con gái đẹp.
thanh-xuân: Xuân-xanh. Câu này chẳng có ý nghĩa gì, có lẽ chỉ dùng thanh-xuân để đối vơi tố nữ cho câu văn lịch-sự đó thôi, hoặc giả là dương-xuân mà chép sai là thanh-xuân ?
mênh-mông: Có bả chép sóng vỗ tung-hoành thì lạc vần, có lẽ mênh-mông vì là "sóng vỗ.."
oanh thành: Chim oanh ở trên thành, trên tường, oanh tức là chim hoàng-oanh, một thứ chim nhỏ nhỏ xinh xinh, sắc vàng, hay hót về mùa xuân, tiếng véo-von nghe êm áí.
quốc hè: Chim quốc về mùa hè, quốc tức chim đỗ quyên cũng gọi là tử-qui, hay kêu về mùa hè, tiếng khắc-khoải ai-oán.
Sắt cầm: Hai thứ đàn.
[Back to the top]
Chẳng qua mai trước, hạnh sau khác gì: Mai và hạnh là hai thứ cây đều nở hoa về mùa xuân, theo thời tiết bao giờ mai cũng nở trước hạnh.
Mai nở trước, mai cười hạnh muộn: Ý nói kẻ sớm chồng thì cười người muộn chồng lỡ thì.
Hạnh nở sau, hạnh ngán mai suy: kẻ muộn lại phàn nàn cho người sớm chồng sẽ chóng hết xuân.
Đến kỳ kết quả, đến kỳ khai hoa: ý nói đến thời-tiết thì tự nhiên có quả có hoa.
trai già có khi nở ngọc: bởi chữ "lão bạng sinh châu".
trúc đông có lúc nẩy măng: bởi chữ "đông trúc sinh duẩn" .
gieo đào trả lý: bởi chữ đầu đào báo lý.
Kim, Kiều: Kim Trọng và Vương Thúy Kiều đính ước với nhau, nhưng rồi Kiều phải bán mình chuộc tội cho cha, sau 15 năm mới lại tái hồi, kết duyên cùng Kim Trọng.
Phan, Trần: Phan Tất Chánh cùng Trần Kiều Liên đính hôn từ thủa còn bào thai, đã trao trâm ngọc quạt ngà làm tin, mà rồi lưu lạc mỗi người mỗi nơi, mãi sau mới thành hôn.
Kim-cúc: là thứ hoa nở về tháng 9, bấy giờ đương lúc lắm sương.
[Back to the top]
Kinh-tùng: một loài cây chịu sương gió tuyết, không bao giờ bị rụng héo bởi sương gió. Luân Ngũ : "tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu giả".
cát-sĩ: Người học-vấn giỏi, người con trai tốt, như chũ cát-sĩ trong câu" Cầu ngã cát-sĩ "
cát-nhân: Người tốt, người có tâm địa khá, như chữ cát-sĩ trong câu " Cầu ngã cát-sĩ ".
Thôi thì thôi, vườn xuân chực khóa: Ý nói cũng muốn khóa buồng xuân để đợi ngày...
Giận những loài nhạn cá ỏi tai:Nhưng đáng giận cho những dư-luận cứ điều này tiếng nọ...
chim xanh: bởi chữ thanh điểu. "Hán-vũ cố sự" ngày mồng 7 tháng7< Han Vu-e ng ngoi, cht co chim xanh bay en trc ien. ong Phng Soc noi : o Tay Vng-mau sap en. Qua-nhien mot lat Vng-mau en, co 3 con chim xanh theo au ben. Sau ngi ta mn ch thanh-ieu ch nhng s gia em tin-tc.
thanh-hoàng: thanh : xanh , hoàng : vàng , do chữ thiên thanh địa hoàng. Thanh hoàng đây là trỏ trời đất, có bản chép thánh hoàng.
Mã Long-tuấn: ngựa hay,ngựa quí, Bá Nhạc tức Tôn Dương, người đời Xuân-thu, rất tinh nghề xem tướng nựa. Thường đi qua một nơi có ngựa kỳ ngựa ký phục ở dưới xe, trông thấy Bá Nhạc thì kêu to, Bá Nhạc xuống xe vỗ về than khóc, đám ngựa ra dáng hả-hê, ngửa mặt lên mà hét, tiếng vang lên tận trời.
Ngọc Kinh-sơn: Biện Hòa người nước sở, được hòn đá ngọc ở núi Kinh Đem dâng vua nước Sở . Vua sai thợ ngọc thử, bảo là đá, Hoà phải tội chặt chân. Đến vua khác lại đem dâng, lại bị chặt chân nữa. Mãi sau mới khám phá ra được là ngọc ở trong đá giá quí không biết bao nhiêu mà kể, ngọc ấy về tay vua Triệu ; vua Tần xin đem 15 thành để đánh đổi, nên gọi là ngọc liên-thành.
hàn-vi: Lúc nghèo-hèn
phong-trần: Gió bụi, lúc nhiễu-nhương, loạn-lạc, bay là lúc lam-lũ khó-khăn .