Hai vật đã tương đồng hoan-hỉ,
Lại cùng nhau từ-tạ một lời :
"Như luận trong công-nghiệp hai tôi:
Ăn có bữa, lo không có bữa.
Dám thưa người, báu gì giống ngựa,
Mà trau-tria lều-trại nhọc-nhằn ?
Ăn cho ăn những cháo đậu xanh,
Ở thì ở những tàu lợp ngói.
Bữa bữa dạo chơi, tắm gội,
Ngày ngày chắn vó, hớt mao.
Sắm-sửa cho, chẳng biết chừng nào,
Suy-tính lại, dư trăm, dư chục.
Sắm lá vả, sắm yên, sắm lạc,
Sắm chân-đưng hàm thiếc, dây cương.
Dời tiền, dời hậu bao vàng,
Thắng đái, dây cương thếp bạc.
Gẫm giống ấy :
Ngựa nghe nói, tím gan, nổi phổi,
Liền chạy ra hầm-hí vang tai :
"Ớ ! này, này, tao bảo chúng bay,
Đố mặt ai dày bằng mặt ngựa ?
Tuy rằng thú, cũng hai giống thú,
Thú như tao ai dám phen-lê
Tao đã từng, đi quán, về quê,
Đã ghe trận đánh nam, dẹp bắc.
Mỏi gối nưng phò xã-tắc,
Mòn lưng cúi đội vương-công.
Ngày ngày chầu chực sân rồng
Bữa bữa dựa kề loan giá,
Ông Cao-tổ năm năm thượng mã,
Mới dựng nên cơ-nghiệp Lưu-gia,
Ông Quan Công sáu ải thoát qua,
Vì cậy có Thanh-long, Xích-thố
Đã nhiều thủa ngăn thành, thủ phủ
Lại ghe phen đột pháo, xông tên
Đàng xa-xôi ngàn dặm quan-sơn
Ngựa phi-đệ một giờ liền thấu.
Các chú đặng ăn no, nằm ngủ,
Bởi vì ta cần-cán, giữ-gìn.
Khắn khắn lo nhà trị, nước yên,
Chốn chốn đặng nông-bô lạc-nghiệp.
Các chú những nằm trong xó bếp,
Tài các ngươi ở chốn quê mùa.
Đừng đừng buông lời nói khật-khù
Bớt bớt thói chê-bai giớn-giác,
Nếu tao chẳng lo trong việc nước,
Giặc đến nhà ai để chúng bay ?
Thật biết một mà chẳng biết mười,
Chớ lừng-lẫy cậy tài, cậy thế".
Ngựa nói lâu, gẫm càng hữu lý,
Vậy chủ bèn phân-giải một lời :
"Đại tiểu các hữu kỳ tài,
Vô đắc tương tranh nhĩ ngã".
Trâu với ngựa cùng muông ba gã,
Mới ra ngoài từ-tạ phân nhau.
Ngựa giận dê, đứng lại giây lâu,
Bèn phát-trạng cáo nài với chủ :
"Dê với ngựa cũng là giống thú,
Chăn đồng chăn, nuôi cũng đồng nuôi,
Dê, người cho ăn nhảy chơi-bời,
Ngựa, người bắt kỵ-biều,, luân-tế.
Gẫm giống chi hữu đầu vô vĩ,
Hình con con, bụng lớn ;
Cáng-náng như đứa có hạ-nang,
Sớn-sác tợ con chàng kẻ cướp.
Nghề tế-kiệu coi đà xấu vóc,
Việc cày-bừa nhắm bóng cũng ươn ;
Hễ thấy người thấp-thoáng đôi bên,
Liền há miệng kêu la : bé-hé".
Dê nghe ngựa nói dê quá tệ,
Liền chạy ra vác mặt, vênh râu ;
Dê nói rằng : "Ta đọ với nhau,
Thử anh lớn hay là tôi lớn.
Anh đã từng vào dinh, ra trấn,
Sá chi tôi tiểu thú quê mùa ?
Mạnh thì lo việc nước, việc vua.
Song chớ khá cậy tài, cậy tướng,
Ai có tài, chủ ban chủ thưởng,
Ai không công, tay làm hàm nhai,
Chẳng dám ăn lúa má, môn khoai ;
Không hề phạm đậu mè, hoa quả.
Khuyên khuyên chớ nói ngang nói ngửa,
Bớt bớt, đừng ỷ thế, cậy tài,
Ai chẳng biết đuôi ngựa thì dài,
Dài thì để xua mòng, đuổi muỗi ;
Vốn như đây đuôi tuy vắn-vỏi,
Đây cũng không mượn ngựa nối thêm.
Ngàn dặm trường, mặt ngựa khoe êm.
Ba gò sỏi, dê đà xong việc.
Việc dê thì dê biết,
Việc ngựa thì ngựa hay
Bừa-cày, có thú bừa-cày,
Kiệu-tế, có muông kiệu-tế,
Dê vốn thật thuộc về việc lễ,
Để hòng khi về hạng tư-văn ;
Để dành khi tế thánh, tế thần,
Lại có thủa kỳ-yên, kỳ-phước.
Hễ có việc, lấy dê làm trước,
Dê dâng vào người mới lạy sau.
Ngựa tuy rằng hình-tượng lớn cao,
Tam sanh lễ, ai dùng đến ngựa ?
Dầu đến việc làm đình, làm chợ,
Cũng lấy dê trảm-thảo, bồi-cơ ;
Nhẫn đến ngày mạng tướng xuất sư,
Cũng lấy dê khấn cầu tổ-đạo.
Lễ cốc sóc thánh nhân còn bảo :
Tử Cống sao dê sống bỏ đi ?
Ngựa nói ngang mà chẳng biết suy,
Dê nào có thiếu chi công trạng ?
Nói cho xứng-đáng,
Dê tuy rằng vô vĩ, vô đầu,
Há dễ cơ-cầu,
Quan phong Trường-tu chủ-bộ.
Hèn như dê mà dám đọ,
Tiện như dê, quí bất khả ngôn.
Ngựa rằng : Ngựa ở chốn quyền môn,
Phong cho ngựa chức chi nói thử ?
Thưa chủ nghiệm việc dê với ngựa,
Cân mà coi, ai trọng, ai khinh ?"
Ngựa nghe qua tỏ đặng sự tình,
Dê rằng : bé, ai hay chức lớn ?
Dê nói lại tài dê cũng rắn,
Ngựa thưa qua, sức ngựa thêm rồng :
Chủ phê cho lưỡng bạn tương đồng,
Chắp sự giả các tư kỳ sự.
Lời tự-thuận hai đàng xong-xả,
Dê phát ngôn, bèn trở nại gà :
"Nuôi chúng tôi lợi nước lợi nhà,
Nuôi giống gà thật vô ơn ngãi.
Thấy chủ vãi đám ngò, vạc cải
Túc nhau bươi chếch gốc, trốc cây.
Thấy người trồng đám đậu, vồng khoai,
Rủ nhau vầy nát bông, nát lá.
Rất đến đỗi thấy nhà lợp rạ,
Kéo nhau lên vậy-vã tâng bầng.
Cho ăn rồi quẹt mỏ sấp lưng
Trời chưa tối, đà lo việc ngủ.
Ba cái rác nằm không yên chỗ,
Mấy bụi rau nào để bén dây
Cả ngày thôi những khuấy, những rầy,
Nuôi giống ấy làm chi vô lối ?"
trau-tria: Sửa-sang.
chắn vó: Cắt gọt móng.
sắm lạc: Lạc : Nhạc đeo cổ.
chân-đưng: Bàn đạp,
phen-lê: Phân-bì.
Cao-tổ năm năm thượng mã,: Hán Cao-tổ mã thượng đắc thiên hạ : Vua Cao-tổ họ Lưu đánh dẹp năm năm được thiên-hạ ở trên mình ngựa.
Quan Công sáu ải thoát qua: Quan Vũ vượt qua sáu cửa ải.
Thanh-long, Xích-thố: Thanh-long : Tên thanh-đao. Xích-thố : Tên con ngựa sắc hồng,
phi-đệ: Chạy nhanh như tên bay.
nông-bô lạc-nghiệp: Dân cày-cấy yên-vui nghề-nghiệp.