6.- Dân Lịch-thành ái-mộ Mai-Công (câu 143 - câu 194)
7.- Kẻ ở người đi
(câu 195 - câu 254)
Giã nhau mười dặm tràng-đình.
9.- Quang cảnh nơi
kinh-đô (câu 255 - câu 264)
Lại truyền giục kiệu lên đường,
10.- Mai-công vào chầu
và qua tướng-phủ (câu 265 - câu 300)
Tìm vào Lại-bộ tới nơi,
Còn đương trò-chuyện trước sau,
Xôn-xao nghe bỗng tiếng đâu gần gần.
Gót giày ông mới động chân,
Trông ra đã chật một sân những người.
Bẩm rằng: " Dân sự chúng tôi,
"Tấm lòng xin ngỏ, chút lời xin thưa.
"Từ ngày trọng lỵ đến giờ,
150.- "Một đường sao phúc, muôn nhà phật sinh.
"Bao nhiêu lại tệ dân tình,
"Đuốc soi chẳng chút đỉnh-đinh dám lòa.
"Tấc lòng xem bẵng mẹ cha,
"Đọc ca mạch-tuệ ngâm thơ cam-đường.
"Bấm tay mười mấy năm trường,
"Mưa xuân tưới khắp một phương Lịch-thành.
"Rày vâng thăng điệu lai Kinh,
"Thỏa lòng hồ-thỉ phỉ tình đai
cân.
"Thênh-thênh nhẹ bước thanh vân,
160.- "Cành cây dám tưởng bận chân loan hoàng.
"Nghĩ cho chút phận tầm thường,
"Đạo con cái được tựa-nương bấy chầy.
"Chỉn e tiếp lỵ sau này,
"Lòng thương cân được như rày mấy phân ?
"Bấy giờ lễ cách quan dân,
"Tưởng công-đức trước, lại năn nỉ nhiều.
"Lòng thành nay quyết xin theo,
"Làm đơn ái-mộ dâng liều một chương.
"Hoạ là vua nặng lòng thương,
170.- "Thấy tình Trường-xã, lưu chàng Khấu quân."
Ông rằng : "Vẫn biết lòng dân,
"Lời trung-hậu ấy, tình thân-ái này.
"Ta làm Huyện-tể bấy nay,
"Có chi công-đức đáng rày truy-tư?
"Phương chi thế-sự bây giờ,
"Dễ dò bụng hiểm, khôn lừa mưu gian.
"Họ Lư cưu dạ tham tàn,
"Rình như miếng mộc, những toan hại người.
"Phỏng mà nghe đặng như lời,
180.-Hẳn là mua chuộc lòng người tại ta.
"Miệng sàm dệt gấm thêu hoa,
"Công nào chưa thấy tội đà đến ngay.
"Lại càng mang tiếng chẳng hay,
"Yêu đây để xấu cho đây ích gì?"
Dân nghe biết ý quyết đi,
Lui ra, còn dám nằn-nì nữa đâu?
Một đoàn kẻ trước, người sau,
Khen cho rằng khéo bảo nhau một bề.
Lễ đâu đưa đến tức thì,
190.- Vạn dân-tản, vạn dân-y sãn sàng.
Thưa rằng: "Gọi chút lễ thường,
"Mà lòng tạc dạ ghi xương còn dài"
Ông xem thấy ý vật nài,
Kíp truyền thu lễ, trao lời giã ơn.
8.- Phong-cảnh dọc đường, từ Lịch-thành đến Kinh-sư
(câu 57 - câu 108)
Phu-nhân công-tử xuống thoàn,
Mai-công ở lại đợi còn bàn giao.
Ngại-ngùng thay, lúc phân-bào !
Kẻ về tụ-lý người vào ngọc-kinh.
Cho hay là kẻ trung-trinh,
200.- Nặng lòng vương-sự, nhẹ tình
gia-mang.
Mặc ai châu lệ hai hàng,
Gác tình nhi nữ xem thường như không.
Vài ngày huyện-vụ giao xong,
Ra thành lên kiệu thẳng giong nhật trình.
Huyện dân chực sẵn tiễn-hành.
Hương-đăng bày án, tràng đình dọn nơi.
Đón đưa khắp mặt thiếu ai,
Mấy tòa quan tỉnh mấy người hương thân.
Người dường ra ý ân-cần.
210.- Ông thì thủng-thẳng có phần xem khinh.
Trông theo đã khuất mây xanh mấy trùng.
Nước non đưa đón người trung,
Suối tuôn giòng chảy, núi chồng lớp cao.
Nhởn-nhơ cỏ đón hoa chào,
Hang men móc vượn, cây xào-xạc chim.
Tấc gang kinh-quốc chờ xem,
Đường ngày giục kiệu, điếm đêm đổ cờ.
Kià chài sớm, nọ cày trưa,
Gió gần giọng địch (mục), mây xa tiếng tiều.
Quê người phong cảnh đìu hiu.
Trăng thanh gió mát dường chiều chuông ai !
Những màng giong-ruổi dặm dài,
Trông ra bỗng thấy bốn người xa xa.
Hỏi ra mới biết rằng là:
Trong kinh, Lại-bộ sai nha đón mình.
Hoàng hôn gác bóng chênh-chênh,
Truyền tìm quán khách bộ-hành nghỉ-ngơi.
Bốn người tức khắc vâng lời,
230.- Trước đi tìm chốn thảnh-thơi đón mời.
Tuy rằng quán khách hẹp-hòi,
Chốn nằm cũng tĩnh, chốn ngồi cũng thanh.
Thung-dung hỏi chuyện trong Kinh:
Lư, Hoàng lũ ấy tung-hoành ra sao ?"
Thưa rằng: "Chức trọng quyền cao,
"Triều-quan quá nửa ra vào làm tôi.
"Ai ai khóa miệng bịt hơi,
"Ngang vua phú-qúi, nghiêng trời uy-linh.
"Đại-gia rày ở quan Kinh,
240.- "Theo đòi nhiều ít, thế tình là xong."
Mai-công nổi giận đùng đùng,
Rằng: "Phen này quyết chẳng dung loài hồ.
Vào đây ta sẽ hay cho,
"Đừng Tung, đừng Kỷ, hết Lư, hết Hoàng !
"Mặt nào bắt-chước thế thường,
"Thiết-tha ban tối, khoe-khoang giữa ngày."
Gan càng tức, ruột càng đầy,
Truyền thôi cuộc rượu, vào ngay trong bình.
Sáng mai thức dậy trông quanh,
250.- Treo trên thấy có bực tranh Di, Tề.
Như khêu tấm dạ trung-nghì,
Dạy đem nghiên-bút thơ đề mấy câu.
Than rằng: "Thanh ứng khí cầu.
"Người kim cổ, bụng trước sau một đường."
Trông kinh-quốc đã tấc gang đó rồi.
Một vùng riêng đặt phỵ trời,
Hoàng-thành trăm trắm, kỉ-đài cao
cao.
Cõi người nước nhược nguồn
đào,
260.- Liền mây ngàn dãy, bày sao trăm tòa.
Chập-chồng vách gấm tường hoa,
Cửa lầu ngũ-phượng, thềm nhà
lượng long.
Bách quan đóng chặt sân phong.
Tiếng chen xe ngựa, vẻ lồng cân đai,
Truyền nha-môn định, ngày mai tiến chầu.
Ngắm xiêm, sụa mũ giờ lâu,
Uốn lưng năm lạy, Khấn đầu ba phen.
Lạy rồi ren-rén tâu lên,
270.- Chúc câu vạn-tuế, dâng lên cửu-trùng.
Tiếng trời đưa lại bệ rồng:
"Đặt tòa gián-viện kén dùng kẻ trung.
"Sau cho sắt đá một lòng,
"Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê."
Tâu rằng: "Hổ phận ngu-si,
"Đem lòng khuyển mã đền nghì bể
sông."
Tan triều lệnh ngự vào trong,
Bách quan lui xuống đều cùng bước ra.
Mai-công toan trở lại nhà,
280.- Tiện gần tướng-phủ sang qua vào liền.
Nghiêm-trang cụa thế sân quyền,
Trước bia hạ mã chật lèn ngựa xe.
Ông bèn giả cách vô tri,
Ngồi trăm-trắm kiệu, vào kề nghi-môn.
Môn quan trông thấy thét dồn,
Xôn-xao bẻ-bót, ôn-tồn hỏi tra.
Ông rằng: "Đâu chẳng biết ta,
"Huyện-quan về bộ Lại-khoa ngày rày.
"Buổi chầu nhân tiện sang đây,
290.- Nhờ ai trong ấy bẩm thay cho tường."
Môn-quan rằng lệ phủ-đường,
"Có đồ yết lễ, có vàng mấy bao.
"Có thì sẽ bẩm cho vào,
"Bằng không hãy chực ngoài rào xa xa."
Ông rằng: "Lệ đặt bao giờ,
"ấy là quốc-pháp hay là phủ-qui ?
"Ta đây vốn chẳng cần chi,
"Vào thì cũng được, ra thì cũng nên !"
Không xuống kiệu vẫn ngồi trên,
300.- Tay cầm thủ-bản ném bên thềm ngoài.
trọng lỵ: tiếng nói tôn cũng như trọng nhâm
phật sinh: bởi chữ: Nhất lộ phúc tinh và vạn gia sinh Phật.
lại tệ dân tình: Tình tệ nha lại và dân chúng
mạch tuệ: Đời Hán, Trương Kham làm Thái-thú quận Ngư-dương, khuyên dân chăm-chỉ cấy lúa trồng dâu, dân được no ấm, có câu ca tụng rằng: "tang vô phụ chi, mạch-tuệ lưỡng kỳ", nghĩa là cây dâu không có cành phụ, bông lúa mạch có hai chẽ, ý nói dâu tươi lúa tốt.
cam đường: Đời Chu, Thiệu Bá đi tuần thú thay vua, thường nghỉ dưới gốc cây cam-đường xử kiện, dân có thơ khen rằng: "tế phế cam-đường, vật tiễn vật phạt, Thiệu Bá sở bạt" nghĩa là rườm-rà cây cam-đường (phải chăng cây bàng) chớ cắt chớ chặt, nơi Thiệu Bá nghỉ-ngơi.
lai Kinh: lại kinh cũng như đăng kinh đã nói trên.
hồ thỉ: Hồ thỉ do chữ: tang hồ bồng thỉ, cung bằng gỗ dâu, tên bằng cỏ bồng : ngày xưa nhà vua sinh con trai thì dùng hai thứ ấy treo ra cửa cung, nhân thế người ta mượn làm biểu-hiệu phái con trai chí ở bốn phương, như cung tên bắn tung khắp bốn phương trời.
đai cân: bởi chữ cân đới, trỏ về phái quan chức mũ cao áo dài.
thanh vân: mây xanh, bước thanh-vân nói về công-danh bay nhảy.
loan hoàng: câu này đại ý như câu chữ nho : "Chỉ cức phi loan phượng sở thê" nghĩa là khóm cây gai không phải chỗ đậu của loài chim loan-phụng, Nguyên Cừu Hương đời Hán, mới bổ chức Đình trưởng, có người đàn bà góa đến kiện đứa con ngỗ-nghịch là Trần Nguyên, Hương khuyên-bảo trở về, rồi thân đến nhà, đem nghĩa lý hiểu bảo, Trần Nguyên cảm-đông nghe theo, trở nên người con chí hiếu. Quan Huyện-lệnh là Vương Hoán khen ngợi cất lên làm Chủ-bạ và hỏi: " Nhà ngươi không trị tội Trần Nguyên, lại chịu khó đến khuyên bảo, chả cũng kém mất sự lập oai như giống chim cắt với đàn chim nhỏ hay sao ? Hương thưa: "Giữ kỳ làm chim cắt, sao bằng làm chim loan-phụng !" Vương Hán cười nói: "Vậy thì khóm cây gai (trỏ vào chức chủ bạ) không phải chỗ đậu của chim loan-phụng !" Bèn đem tiền lương tháng giúp cho Hương vào nhà Thái học, sau trở nên bậc đại tài.