tam khôi: Ba lần đỗ đầu, câu này cũng tối nghĩa như câu " Ba chàng cùng chiếm khôi nguyên tú-tài " ở trên.
bảng xuân: bởi chữ Xuân bảng : Bảng yết những người đỗ hội, vì thi hội về mùa Xuân, cũng như thu bảng yết, những người đỗ hương.
đính hôn: Đính ước việc hôn-nhân.
Tham-tướng họ Văn: Tức Văn Sác, thân-phụ Tuấn Khanh.
Binh Đạo: tên kẻ vu cáo Văn Tham-tướng.
bất hài: Chẳng hoà-thuận, không bằng lòng nhau.
vọng tâu: do chữ vọng-tấu : Tâu bậy, vu-cáo.
Biên-phong: Biên : Tịch-biên ghi vào sổ. Phong : niêm phong dán giấy làm dấu phong-tỏa không cho mở.
điền-sản: Vườn ruộng, của-cải.
thân-thích: Họ-hàng,
[Back to the top]
công-tử: Con nhà quan gọi là Công-tử ; còn là tiếng gọi tôn chung cho tất cả hạng con trai trẻ tuổi tuấn-tú.
văn-nhân: Người theo đòi văn-học.
doành: hay duềnh là vụng bể, ý nói nước mắt sa thành vụng nước, có bản chép "...lệ sa nên ghềnh " thì hối nghĩa.
Đề Oanh: là con gái út Thuần-vu Ý đời nhà Hán, Ý không con trai, chỉ có 5 đứa con-gái, chẳng may phạm tội sắp bị chết chém. Ý than vì không có con trai nên lúc hoãn-cấp chẳng trông cậy được vào đâu. Đề Oanh lấy làm thương cảm, theo cha lên kinh dâng thư lên Hán-văn Đế, xin vào cung làm tỳ-thiếp để chuộc tội cho cha. Lời-lẽ thảm-thiết, Văn Đế thương tình tha cho Thuần-vu Ý khỏi chết và hạ chiếu bỏ ngục-hình là thứ hình phạt xử-tử những người có tội nặng.
đạo thường: cũng như đạo hằng, đạo phải trên đời ai cũng nên theo.
ngục-trường: Nơi giam cầm người có tội, nơi nhà ngục. Những ngục trường làm ăn là những phu dịch của nhà ngục.
quan pháp vô thân: Phép công không có tư-vị thân tình ai.
nhân: lòng bất nhẫn biết thương người. Nhân tâm.
lão-tướng: Ông quan gìa, trỏ vào Văn Tham-tướng.
ngục-quan: Quan coi ngục, Quan Đề-lao.
[Back to the top]
Tiến kinh vạn lý trình-đồ: Đường lên kinh xa-xôi hàng muôn dặm.
Lệ khi ấm-lạnh lõa-lồ thì sao: Có bản chép " Lệ khi ấm lạnh lõa-lồ ai theo ".
phụ-tử thiên thu: Phụ-tử : Cha con ; thiên thu : nghìn năm.
khởi-trình: Lên đường, khởi hành, ra đi.
Văn Long: Tên một người đầy-tớ nhà họ Văn.
Quan-san nghìn dặm: Quan: quan-ải, nơi biên-giới, san: núi. Quan san ngàn dặm, ý nói đường-sá xa-xôi hiểm-trở.
Trá hình nam-tử: ăn-vận giả làm con trai.
quốc-sắc nữ-tài: Quốc sắc: Sắc nước ; nữ tài: con gái có tài, trỏ vào Tuấn Khanh (Phi Nga).
Di-Đà: Danh-hiệu đức Phật, một giáo-chủ của thế-giới cực-lạc. A-di-đà Phật là tiếng Phạn, có nghĩa là vô lượng, không biết đâu mà lường. Kinh Phật nói rằng : A-di-đà Phật có 13 hiệu như vô lượng quang phật, vân vân...
độ thân: Tuấn Khanh niệm Phật tế-độ cho mình hay là tế-độ cho phụ-thân. Nhưng có lẽ cho phụ-thân thì hợp hơn, vì Tuấn Khanh đương vào lúc quên mình để cứu cho cha thoát tội.
[Back to the top]
Thái-thượng lão-quân,: họ Lý tên Nhĩ, thụy là Đam, tự là Bá Dương, mới sinh ra đã bạc đầu nên gọi là Lão-tử. Các nhà tu đạo đều thờ làm Thủy-tỏ.
Cỡi trâu: Cuối đời nhà Chu, Lão-tử cỡi con trâu xanh ra cửa Hàm-cốc, trao kinh Đạo-đức cho quan Lệnh-doãn ở Hàm-cốc gồm 500 câu.
phong vân: Gió mây, nói về sự biến-hóa pháp-thuật của thần tiên.
Thổ-công linh-thần: Thần thiêng ở địa-phương, tức các vị Thành-hoàng bản thổ.
một sớ: bài văn sớ ấy đại-ý như sau:
" Tin-nữ tôi nguyên là văn-nhân, tên là Phi- Nga, ở xã Cẩm-trúc, phủ Thành-đô, xin cầu cho cha là Văn sác, vì bị đứa khinh bạc, hiềm thù từ lâu, nó cố ý vu-cáo, để cha tôi bị bắt. Xin trời đất giáng phúc, chóng giải được nỗi oan, để được bình yên, trở về dinh. Và xin phù-hộ cho tôi được hài duyên theo lời ước bói tên. Tôi cầu lạy Phật trời và các vị thần linh cho cầu được như ý, nguyện được như lòng, kính dâng một phong sớ, xin chứng giám tấc lòng cho tôi".
Thành-đô: Tên một phủ thuộc tỉnh Tứ-xuyên bên Tàu, bây giờ là huyện.
Lầu Tần, quán Sở: Tần Sở : Tên hai nước chư-hầu về đời Chu bên Tàu, Tần tức huyện Thiên-thủy tỉnh Cam-túc và Sở tức huyện Tỷ-qui, tỉnh Hồ-bắc bên Tầu bây giờ. Lầu Tần, quán Sở đây chỉ là nói quán kia đông-đức, chứ không có ý gì khác.