Đêm thanh nguyệt gác rèm the,
Xa trông bóng đã đèn khuya cách lầu.
Sầu vừa ngớt, ngớt lại sầu,
650.- Sông Ngân thử bắc lấy cầu Ô xem.
Sao tàn, sương dịu, tuyết êm,
Góc tường ẩn bóng bên thềm lân-la.
Thừa khi gió quạt cánh gà,
Lay mành mượn tiếng nàng ba lọt vào:
"Thương với nao ! nể với nao !
"Làm sao trong ấy ? làm sao ngoài này ?
"Một lời công đức nặng thay,
"Nên bây gìờ phải đến đây tạ lòng.
"Đã rằng hỉ-xả bao-dong,
660.- "Gió sương nỡ để lạnh lùng sao an !"
Nàng đương khêu ngọn đèn tàn,
Véo-von nghe tiếng ngoài hiên rụng-rời.
Thưa rằng: "Rừng mạch vách tai,
"Đêm hôm xin chớ lắm lời làm chi.
"Xưa nay đã giữ một bề,
"Thương thì cũng đội, trách thì cũng vâng.
"Rút dây chẳng nệ động rừng,
"Làm chi để tiếng lố-lăng thế cười.
"Thôi thôi tôi cũng lạy người,
670.- "Mới thong-thả, hãy về ngơi, kẻo mà!"
Chàng rằng: "Ta những giận ta,
"Bước ra gặp vía Hằng-nga bẽ-bàng.
"Bấy nay vâng phép Tạng-vương,
"Dám còn đeo thói Thọ-dương chốn này.
"Vì ơn nên phải đến đây,
"Chẳng thương để tiếng nước mây oan người,
"Hẹp gì một cánh cửa ngoài,
"Chẳng cho vào bạch Như-lai một điều.
"Kiếp này phụ, kiếp sau yêu,
680.- "Lại như ả Bích, quyết liều cho xong.
Sởn gai, lời thốt lạ-lùng,
Nếu thi gan với anh-hùng thì thua.
Ai cười, trời Phật xét cho,
Cho vào mà kể duyên-do mới tường!
Cửa mây vừa hé then sương,
Dưới đèn lóng-lánh mặt gương quảng hàn.
Lan mừng huệ, huệ mừng lan,
Ngọc quan khấp-khởi, từ-nhan ngập-ngừng.
Nỉ-non chàng mới hỏi rằng :
690.- "Bấy lâu mượn gió Các-Đằng truyền hơi.
"Dương-đài đã trộm Chương-đài,
"Căn-nguyên phải gạn một lời làm sao.
"Tên gì, quê, họ, nơi nao ?
"Vì đâu xui khiến cho vào đến đây ?
"Nguồn cơn xin dạy cho hay,
"Nhật tiền quán nước, làng mây thế nào ?"
Nàng nghe lời nói bẽ chiều (?),
Giở sao xiết nỗi, nói sao nên lời.
Gửi rằng: "Phận cánh hoa rơi,
700.- "Bây giờ còn dám giấu người sao nên !"
Nằn-nì mới ngỏ sự duyên,
Dẫu lòng vàng đá, cũng nghìn xót-xa :
"Đàm-Châu, quê thiếp còn xa,
"Họ Trần, tên đặt vốn là Kiều-Liên.
"Bào-thai đã hẹn nhân-duyên,
"Quạt ngà, trâm ngọc kết nguyền họ Phan.
"Rồi ra cách trở quan-san,
"Chẳng may bóng hạc khơi ngàn non Hoa.
"Cô-đơn con trẻ, mẹ già,
710.- "Phấn trôi cuốn má, sương pha bạc đầu.
"Cửa nhà binh lửa đâu đâu,
"Tuyết sương quảy một gánh sầu ra đi.
"Đoạn-trường thay lúc phân-kỳ,
"Mẹ thì bãi bắc, con thì non tây.
"Khóc than cũng thấu cao dày,
"Xui nàng Trương lại giắt tay cửa thiền.
"Oan chi chút phận thuyền-quyên,
"Chữ tình cám cảnh, chữ duyên bẽ-bàng.
"Rừng thiền ơn đã rộng thương,
720.- "Khẩn-cầu vả sẵn đèn hương cửa người.
"Họa chi giun-giủi ơn trời,
"Đền công sinh nặng, giải lời nguyền sâu.
"Thân này mà dở-dang nhau,
"Thì xin tu lấy thân sau để dành.
"Hoa trôi nước chảy lênh-đênh,
"Mặt nào còn giở tâm-tình cùng ai !
"Dù chàng ép trúc nài mai,
"Tìm nơi giếng cạn thấy người hồng nhan.
"Để ai ngọc nát, hoa tàn,
730.- "Giải oan chàng phải lập đàn cho nhau !"
Sinh nghe ngẩn mặt giờ lâu,
Ngẫm rằng: "Con tạo cơ mầu khéo thay !
"Bấy lâu mơ tưởng đêm ngày,
"Ai ngờ Phan đó, Trần đây mà lầm.
"Tri-âm chưa tỏ tri-âm,
"Thì xin bên quạt bên trâm sáng vào !"
Vội vàng mở tráp tay trao,
Nhìn xem nào có chút nào là sai.
Cành trâm thích, quạt chữ bài,
740.- Rành-rành tên họ hai người song-song.
Mừng nhau lần kể sự lòng,
Gian-nan ngày trước, lạnh lùng bấy nay.
Biên lời đó, chép lời đây,
Bứt hoa dẫu vạn, tờ mây dẫu nghìn.
Xe vàng lẩn, áo hồng-xen (?),
Hết phen sầu-não, tới phen vui-mừng.
Rỉ tai chàng mới dặn rằng :
"Ở đây nương-náu hãy đừng hở-hang.
"Công-danh chờ thuở xuân sang,
750.- "Thế nào rồi sẽ phượng hoàng rủ nhau."
Dặn-dò chưa dứt cạn sâu,
Trên am một tiếng chày đâu hãi người.
Vội-vàng sinh trở gót hài,
Ngoài hiên oanh đã nhộn cười cùng oanh.
Non đông lò lửa hé mành,
Tiếng cầm bên ấy, tiếng kinh bên này.
Sự tình một đó một đây,
Dẫu bà nghìn mắt, dẫu thầy tám tai.
Thông thông, trúc trúc, mai mai,
760.- Ngày, người đất bụt; đêm người động tiên.
Đầu gành còn điểm mõ quyên,
Vo-ve đàn dế bỗng chen gió vàng.
Khúc cầm thông mới dạo sương,
Chào oanh, sớm đã vội-vàng tin mai.
Lân-la tháng bụt ngày trời,
Hạ qua, thu tới, đông rồi lại xuân.
Vũ-môn mừng đã đến tuần,
Phượng loan rày gặp phong-vân phải tầm.
Giục đồng quảy tráp, ôm cầm,
770.- Lên chùa bạch đã, xuống thềm bảo qua.
Nàng rằng: "Chàng học quyết khoa,
"Bõ ngày áo gấm xem hoasẽ về.
"Ở đây nương-náu bồ-đề,
"Chăm-chăm một tấm lòng quì hướng dương.
"Ngùi ngùi dậm liễu, ngàn sương,
"Tiễn đưa hai chữ bình-khương với lòng."
Thoắt thôi ngang dọc tây đông,
Ngựa theo đường cũ ruổi-dong tếch chừng.
Thông reo, vượn hót, chim mừng,
780.- Hương chùa đưa gió, huê rừng phun sương.
Tuần dư vừa tới cửa trường,
Danh tài mây hợp, hiền lương sao bày
Cùng vào vâng mệnh năm mây,
Côn bằng phỉ sức, rồng mây phải thì.
Thám-hoa vào lạy đan-trì,
Cẩm-bào phô cật, hoa chi giắt đầu.
Tiếng thơm lừng-lẫy đâu đâu,
Kẻ siêng ong bướm, người mau cá nhàn.
Ngán thay hỡi bạn hồng-nhan,
790.- Làm chi rác lỗ tai quan khéo là !
Một thư nhắn gửi về nhà,
Một thư đưa đến cửa già báo tin.
Từ ngày chàng ruổi dặm nghìn,
Tấm lòng dựa cánh cửa chiền đăm đăm.
Bên tai thoạt mảng hảo âm,
Hoa mơi (?) điểm tuyết, trăng rằm vén mây.
Cô nghe tin cháu mừng thay,
Đành thay tông-tổ đức dày nhi tôn.
Thám-hoa ngày ở từ môn,
800.- Trai thành nên đức Thế-tôn độ người.
Mới hay bĩ cực thái lai,
Còn trong trần-lụy biết ai vương-hầu.
Chẳng yêu nhau, chớ dể nhau,
Những loài yến-tước biết đâu chí hồng.
Đương mừng náo-nức tưmg bừng,
Đình phô (?) nghe đã ruổi-dong gần miền.
Xe xe, ngựa ngựa lần chen,
Hoa quen mừng rước, chim quen đón chào.
Chênh-vênh ngoài chốn non cao,
810.- Áo hồng, đai bạc, bước vào cửa không.
Chuông kêu lẫn tiếng thiều rung,
Cờ xen bảo-cái, tán lồng tràng-phan.
Hương đèn tạ phật vừa an,
Mới đem trâm, quạt đến bàn cùng sư.
Sư rằng phận đẹp duyên ưa,
"Mừng cho đôi lứa đã vừa đồng cân.
"Song đây là cảnh chân-chân,
"Tăng già chịu việc hôn-nhân trở lời.
"Gần đây đã có một người,
820.- "Đưa nường đến chốn phật-đài ngày xưa.
"Cậy người biện lễ ông Tơ,
"Xin hầu sang đó mà đưa nàng về.
Mừng hầu phỉ chí nam nhi,
Vinh-qui cùng với vu-qui một ngày.
Bén rồng, ôm phượng ra tay,
Mặc cô kinh-kệ ở đây khấn-cầu.
Tạ từ cùng bước xuống lầu,
Thám-hoa thì trước, mà sau Diệu-Thường.
Áo hồng đã ruổi xe vàng,
830.- Trên lầu còn thoáng mùi hương lạ đời.
Chàng liền thay chuỗi hạt trai,
Đã phô thức phấn, lại gài then mây.
Lên chùa lạy bụt, lạy thầy,
Giã Hương-Công, đội ơn thầy chẳng quê.
Giã non, giã nước, giã chiền,
Giã mai, giã trúc, giã miền cỏ hoa !
Cảnh này trong chốn đường hoa
Vào chơi thết-đãi, bước ra phụng-chiều.
Thoắt thôi xe ngựa dập-dìu,
840.- Sang Kim-lăng, cứ như điều nhà sư.
Tiệc thời mười lạng vàng đưa,
Nước non kể mấy tóc tơ thẹn-thùng !
Thế này của chửa xứng công,
Nặng ơn Phiếu-mẫu, nhẹ lòng Vương-Tôn.
Rạng ngày lại ruổi nước non,
Giải rong cờ bướm, dậm dồn vó câu.
Vui lòng nhẹ bước nên mau,
Ba trăng đã đến Hòa-châu cảnh nhà.
Thung-huyên đôi khóm già già,
850.- Trên đầu vẻ bạc, ngoài da thức mồi.
Rỡ phô tiệc nhộn đầy vơi,
Dưới hiên lần chuốc thọ bôi đôi tuần
Môn-đình xuân lại thêm xuân,
Thi thư rạng nước, đai cân nối nhà.
Thám-hoa quì lạy thềm hoa,
Niềm xưa, nỗi trước lân-la bày tường:
"Con từ du-học bốn phương,
"Thần-hôn đành lỗi đạo-thường làm con.
"Phúc thừa muôn đội tùng môn,
860.- "Bảng vàng may trộm chữ son tên đề.
"Nhân-duyên vâng lĩnh quạt thề,
"Nhờ tay nguyệt-lão khéo xe lạ-lùng.
"Ngửa trông trời bể bao-dung,
"Thứ cho dưới gối tấm lòng tiểu-nhi."
Rằng: "Từ con cách đình vi,
"Ngán lòng nương cửa mọi bề nhớ trông.
"Nhờ hồng-phúc, đội âm-công,
"Gặp khi kim-bảng, động-phòng cả hai.
"Rồi đem nhau đến thọ-đài,
870.- Lạy bà Trần-thị kẻo người nhớ mong.
"Người từ lỡ bước long-đong,
"Trời xui nghìn dặm để lòng tới đây.
"Nặng bên tình nghĩa xưa nay,
"Rước về phụng-dưỡng đêm ngày thay con.
"Chữ duyên rày đã vuông tròn,
"Đem tin mừng lại kẻo buồn bấy lâu."
Tạ ân nàng lại khấu đầu,
Cùng chàng vâng mệnh sang hầu từ-thân.
Bước vào vừa đến giữa sân,
880.- Song-song cùng đặt bức khăn lạy chào.
Sụt-sùi kể-lể thấp cao,
Nỗi con, nỗi mẹ, tiêu-hao tỏ tường :
"Mừng con và đội ơn chàng,
"Thân già được thấy giàu-sang ai ngờ ?"
Lạy thôi, nàng giở sau xưa:
"May nhờ một sớm móc mưa tưới nhuần.
"Xiết bao giở nỗi gian-truân,
"Một nhà sum-họp Tấn, Tần từ đây.
"Duyên hương-lửa, hội rồng-mây,
890.- Bõ công ly-biệt, bõ ngày tân-toan"
Thoắt thôi từ tạ dưới màn,
Về lầu mở tiệc đoàn-viên chúc mừng.
Chơi-vơi hoa-chúc tưng-bừng,
Véo-von đàn hát, vang lừng phách sênh.
Cung nam, cung bắc, cung huỳnh,
Đọ như tiếng kệ, tiếng kinh chẳng nhường.
Có khi cợt phấn, diễu hương,
Sau dường Bồ-tát, trước dường tiên-nga.
Có khi ướm nguyệt, chào hoa,
900.- Lầu son phảng-phất cửa già gió trăng.
Huệ lan đương rộn tiệc mừng,
Tin hay đã thấy tưng-bừng sứ hoa.
Việc quan hẳn khác việc nhà,
Lạy nghiêm-từ dã, lạy bà từ-thân.
Cùng nàng xe ngựa dời chân,
Nước-non lặn-lội ba tuần tới nơi.
Bệ rồng gang tấc mặt trời,
Tâu lời trung-nghĩa, dâng bài tu-nhương.
Phải duyên ngư-thủy nhất đường,
910.- Ấn son kén mặt, gươm vàng trao tay.
Mệnh trời vâng chiếu năm mây,
Ra tài Khấu, Đặng, thử tay Tiêu, Tào.
Đông-nam chỉ ngọn cờ mao,
Non xanh sấm dậy, sóng đào gió rơi.
Cáo, kình im-lặng tăm-hơi,
Doành ngâm rửa mác, non đoài treo cung.
Khải-ca lừng-lẫy phu công,
Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột-rường.
Giơ hốt ngọc, giắt ấn vàng,
920.- Cõi bờ mở rộng, mối giềng xây nên.
Đồng-hưu rờ-rỡ thẻ khuyên,
Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân.
Nhà chung-đỉnh, cửa đai-cân,
Vinh-phong sắc Quận phu-nhân cho nàng.
Móc mưa nhuần gội ân sang,
Nền nhân, cây đức rạng hàng quế-lan.
Trăm năm duyên sánh phượng loan,
Tao-khang hai chữ, Trần, Phan dõi truyền,
Tốt tươi hai khóm thung-huyên,
930.- Thêm mừng nước trị nhà yên đời đời.
ĐOAN KET
Lạ thay cùng đạt cơ trời,
Chớ khoe quyền thế, chớ cười hàn-vi.
May ra ai cũng một thì,
Hơn nhau hai chữ nhân-nghì là hơn.
Người quân-tử, khách hồng-nhan,
Kiền-khôn còn rộng tạo-đoan còn dài.
Nôm-na chép truyện mà chơi,
Xét cơn bĩ, thái, dám lời khen chê.
Thực-thà dám sánh tân kỳ,
940.- Gọi là lảm-nhảm để ghi sau này.
Sông Ngân thử bắc lấy cầu Ô: Sông Ngân bởi chữ Ngân-hà. Cầu ô, bởi chữ ô-kiều hay thước-kiều. Tục truyền tối mùng 7 tháng 7, chim quạ đi đội cầu qua sông Ngân-hà làm đường cho Ngưu-lang và Chức-nữ hội kiến với nhau; vì phải đội cầu, nên con quạ nào cũng trụi cả lông ngôi. (Phong-tục ký)
nàng ba lọt vào: Ý nói nhờ gió lay mành mành đưa tiếng nói lọt vào trong phòng. Nàng ba chỏ thần gió.
Tạng-vương: tức Địa-tạng-Vương danh-hiệu một vị Bộ-tát ( xem chú-thích trên.Người ta vẵn thường tụng-niệm danh-hiệu này cùng với Quan-Thê-Âm Bồ-Tát...Đại-Thế-Chi Bồ-Tát...v.v...
Thọ-dương: tức Thọ-dương công-chúa con gái Tống-Vũ-đế (bên Tàu) giữa ngày mồng 7 tháng giêng nằm dưới hiên điện Hàm-chương, họa mai rụng xuống trán, thành đóa hoa 5 cánh, gọi Mai-hoa-trang. Chữ Thọ-dương trong câu này chỉ là mượn chữ để chỏ những thói trăng hoa trần-tục.
như ả Bích, quyết liều cho xong: Cổ Bích-ngọc ca : "Bích-ngọc tiểu gia nữ, bất cảm phan quí đức Bích-ngọc gái nhà xoàng, chẳng dám vin chỗ sang. Chỗ này Phan-sinh có ý bảo Diệu-Thường : nếu nàng cứ nhún mình như ả Bích-ngọc thì chàng quyết liều... để đến kiếp sau yêu nhau vậy.
quảng hàn: do chữ Quảng-hàn-cung (cung rộng rãi mà lạnh lẽo) tức là cung trăng. Đây nói mặt gương quảng-hàn nghĩa là nét mặt sáng-sủa lộng-lẫy như mặt trăng.
Ngọc quan: mũ ngọc, ví với người đẹp trai, đây chỉ Phan-sinh.
từ-nhan: mặt nhân-từ lại có nghĩa là nét mặt từ-bi của người tu-hành, đây chỏ Diệu-Thường.
Các-Đằng: bởi chữ Đằng vương-các : một cái các rất cao của Đằng-Vương là con vua Đường, cổ thi có câu " thời lai phong Tống Đằng-Vương-Các " nên người ta hay nói "gió Các-Đằng".
Dương-đài: Tên một ngọn núi ở tĩnh Hồ-bắc bên Tàu. Nơi Sở Trang-vương nằm mơ cùng với thần-nữ gặp gỡ mây mưa ở đấy.
Chương-đài: Đã chú-thích.
bẽ chiều: vẻ mặt buồn-rầu.
quan-san: nơi cửa ải và núi, chỏ về địa-phương hiểm-trở xa cách.
Chẳng may bóng hạc khơi ngàn non Hoa: Câu này bởi câu " nguyệt-minh hoa biểu hạc qui trì ( Trăng soi chốn Hoa-biểu chim hạc về muộn ). Hoa-biểu là hòn đá đánh dấu mả ( mộ chí). Bóng hạc khơi ngàn non Hoa nghĩa là từ-trần.
cuốn: nhăn
phân-kỳ: chia đường mỗi người đi một ngả
cao dày: trỏ trời đất, bởi chữ thiên cao địa hậu trời cao đất dầy.
phượng hoàng: giống chim quí, đứng đầu các loài có cánh, con trống là phượng, con mái là hoàng.
am: đây là chỏ vào am chùa.
lò lửa hé mành: Lúc mặt trời hé tia lửa từ phương đông, nghĩa là buổi sớm mai.
Tiếng cầm bên ấy: Phan-sinh gảy đàn tại thư-phòng, bên ấy.
tiếng kinh bên này: Diệu-Thường tụng kinh tại tĩnh-đường bên này.
Ngày, người đất bụt; đêm người động tiên: Ý nói hai người gặp nhau vẫn giữ kín đáo, ban ngày cùng là người ở chùa, mà đêm đến thì thành ra người ở động tiên, nghĩa là vui vẻ xum-họp như ở cõi tiên vậy.
quyên: tức đỗ-quyên : chim quốc kêu như gõ mõ, nói về cảnh mùa hè.
Vo-ve đàn dế bỗng chen gió vàng: dế là đàn dế ở dưới đất, gió vàng, bởi chữ kim phong, câu này tả cảnh đã sang thu.
Khúc cầm thông: Thông là giống cây ưa chịu sương giá, dù gặp mùa rét vẫn xanh tươi. Câu này tả cảnh mùa đông, thông có lá reo dịp-dàng như cung đàn, nên gọi là khúc cầm thông.
Chào oanh, sớm đã vội-vàng tin mai: Chim oanh hót, hoa mai nở là báo tin xuân, câu này tả cảnh mùa xuân.
Vũ-môn: bởi câu "vũ môn tam cấp lãng" (Ba tầng sóng cửa Vũ) ví người đi thi đỗ như cá vượt ba tầng sóng hóa rồng. Câu này nói đã tới tuần thi-cử bay nhảy.
đồng: là hề đồng đầy tớ theo hầu.
quyết khoa<: Đã chú-thích.
áo gấm xem hoa: do chữ y-cẩm khán-hoa ý nói thi đỗ được ban áo gấm vào vườn thượng-uyển (vườn nhà vua) xem hoa.
bồ-đề: đã chú-thích.
quì hướng dương: là một thứ hoa cứ nghiêng-nghiêng về phía mặt trời, nên có câu "quỳnh tâm hướng nhật hay là hướng dương, nghĩa là lòng quì hướng về phía mặt trời.Câu này ý nói xin như hoa quì, nghiêng lòng hướng theo mặt trời.
Tuần dư: hơn 10 ngày.
Danh tài mây hợp, hiền lương sao bày: ý nói các bậc nhân-tài đông như mây và sao tụ-họp trên trời.
năm mây: do chữ ngũ vân: mây năm sắc, nơi vua ngự.
Côn bằng: Côn: cá côn; Bằng: chim bằng.
đan-trì: sân đỏ, sân nhà vua.
Cẩm-bào: áo gấm.
hoa chi: cành hoa (mũ giắt cành hoa).
rác lỗ tai quan: Đoạn này ý nói thiên-hạ tranh nhau tin-tức mối lái nhưng ngán cho những ả chực lấy chồng quan, chỉ làm rác tai thôi.
cửa già: tăng già.
Thế-tôn: Đức Phật.
bĩ cực thái lai: sự rủi ro hết, sự may-mắn đến.
yến-tước biết đâu chí hồng: loài di sẻ biết thế nào được chí-khí của loài chim hồng chim hộc.
cửa không: bởi chữ không môn. Theo thuyết nhà Phật thì thế-giới nhất thiết cái gì cũng là không cả, nên thế tục cho cửa Phật là cửa không.
bảo-cái, tán lồng tràng-phan: bảo cái: lọng quí; tràng-phan:phướn dài. Hai thứ đều là nghi-trượng củ nhà Phật.
chân-chân: thực-thực, tiếng nhà Phật.Chân-chân đây là trỏ về cõi Phật.
Tăng già: nhà sư ở chùa.
phật-đài: nơi thờ phật.
ông Tơ: tức ông Tơ-hồng, một vị làm chủ xe duyên cho vợ chồng lấy nhau.
hầu: bởi chữ quân hầu: tiếng gọi tôn, đây dùng gọi Phan-sinh.
Vinh-qui cùng với vu-qui: thi đỗ trở về bái-tổ, vu-qui: gái về nhà chồng.
Bén rồng, ôm phượng: bởi chữ phan-long phụ-phượng ý nói phụ tá nhà vua.
Vương-Tôn: tức Hàn-Tín, lúc còn han vi, nhịn đói câu cá dưới thành Hoài-âm, gặp phiếu-mẫu (đàn bà giặt thuê) cho ăn cơm, sau Hàn-Tín làm tướng nhà Hán, có công được phong vương, đem nghìn lạng vàng tạ ơn phiếu-mẫu.
Hòa-châu: tức Hòa-quận, quê Phan-sinh.
Thung-huyên: Thung hay xuân, một thứ cây 8000 năm một lần nở hoa, 8000 năm một lần có quả, người ta dùng để ví với cha, thủ nghĩa mong cho cha sống lâu. Huyên một thứ cỏ sống lâu, có tính vui quên lo, hay trồng ở phía bắc buồng ngủ, người ta dùng để ví với mẹ.
thọ bôi: Chén rượu chúc thọ.
Môn-đình: môn : cửa; đình : sân. Nói chung về gia-đình
Thần-hôn: sớm thăm tối viếng, chức-vụ thờ cha mẹ của người làm con.
nương cửa: Nương cửa do chữ ỷ-môn : Theo tích đời Chiến-quốc, mẹ Vương-tôn-Giả bảo con :"mày đi buổi sớm mà chậm chưa về, thì ta tựa cửa đứng trông, đi buổi chiều mà chậm chưa thấy về thì ta tựa cửa đứng ngóng, vậy "nương cửa" là chỏ vào người mẹ.
tân-toan: cay chua. Nói về những ngày khổ-sở.
đoàn-viên: sum họp vuông tròn.
cửa già: cửa nhà chùa, cũng như Thiền-môn hay không-môn.
nghiêm-từ dã, lạy bà từ-thân: bố và mẹ; Từ-thân: mẹ hiền. Đây nói vợ chồng Phan-sinh từ-tạ ông bà Phan-công cùng Trần-phu-nhân để đi nhậm-chức.
Bệ rồng gang tấc mặt trời: Câu này dịch câu chữ nho "chỉ xích thiên nhan" : gang tấc mặt trời, ý nói coi vua như ở ngay trước mặt.
tu-nhương: bởi chữ "Nội tu chính sự, ngoại nhương di dịch" nghĩa là trong sửa việc chính trị, ngoài đuổi rợ di-dịch, nói về công việc của bậc trọng-thần giúp nhà vua.
ngư-thủy nhất đường: ý nói vua tôi hợp nhau như cá gặp nước.
Ấn son kén mặt, gươm vàng trao tay: Câu này nói chức kiêm cả văn lẫn võ.
Ra tài Khấu, Đặng, thử tay Tiêu, Tào: Khấu là Khấu-Tuân, Đặng là Đặng-Vũ, công-thần của vua Quang-vũ đời Đông-Hán. Tiêu tức Tiêu-Hà, Tào tức Tào-Tham, công-thần của vua Cao-Tổ đời Tây-Hán bên Tàu.
cờ mao: cờ làm bằng thứ lông trắng, quen gọi cờ tuyết-mao, một thứ cờ của quan võ đi đánh giặc.
Cáo, kình im-lặng tăm-hơi: ý nói giặc-giã đã dẹp yên.
Doành ngâm rửa mác, non đoài treo cung: ý nói công việc chinh chiến đã xong, võ-khí rửa treo lên không dùng đến nữa.
Khải-ca: Tiếng hát của đoàn quân thắng-trận trở về gọi là khải ca hay là khải hoàn ca.
Đã ngoài nanh vuốt, lại trong cột-rường: Nanh vuốt bởi chữ chảo-nha; cột-rường bởi chữ lương-đống, ý nói ngoài thì làm nanh vuốt (quan võ) trong thì làm rường-cột 9quan văn) cho nhà nước
Đồng-hưu: do chữ "giữ quốc đồng-hưu thích": với nước cùng chung vui,lo.
Công ghi gác phượng, danh truyền đài lân: Các-phương, bởi chữ phượng các : gác vẽ hình chim phượng; đài lân bởi chữ kỳ lân đài: đài xây hình kỳ-lân. Hai nơi này đều dùng để ghi khắc tên họ các công-thần cũng như đài kỷ-niệm các tướng-sĩ vậy.
chung-đỉnh: Chung cái chuông; đỉnh cái vạc, hai thứ đồ dùng của những nhà giàu có sang trọng, vạc đựng đồ ăn, chuông gọi người hầu, nên có câu" chung minh đỉnh thực chi gia"
quế-lan: bởi chữ quế-tử lan-tôn, con như cây quế, cháu như khóm lan, quí-hóa đông-đúc.
Tao-khang: Tấm cám, chỏ người vợ lấy từ lúc hàn-vi. Hai chữ này do tích Tống-Hoằng không chịu phụ vợ cả để lấy em gái vua Quang-vũ nhà Hán mà từ chối rằng: Tao-khang chi thê bất khả hạ đường : người vợ tấm cám không thể tình-phụ để xuống dưới.
Kiền-khôn còn rộng tạo-đoan còn dài: Câu này bởi câu quân-tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ : Đạo người quân-tử dựng mối bắt đầu từ việc vợ chồng. Đây nói kiền-khôn là trời đất còn rộng thì cái đạo ấy vẫn còn lâu dài mãi-mãi không thể bỏ mất được.