Truyện trinh thử

2- Chuột cái về nhà sinh sự

Họa thi rồi tạ lấy lòng,
Giãi-bày có cả vợ chồng cùng nghe :
"Gặp cơn sóng gió bất kỳ,
Nhờ ơn cứu-vớt đêm khuya nặng tình.
Có nhà chị cũng như anh,
Người ta ai cũng lòng lành như ai.
Đè chừng bắt bóng dong-dài,
Đá mòn đã vậy, miệng người thì sao ?
Xưa nay danh-giá thế nào,
Vì tôi một chút ra vào cho nên.
Phải chăng chị để em xin,
Bận lòng lo-lắng giang-sơn nỗi nhà."
Bây giờ nàng đã bước ra,
Liệu điều chàng cũng giải hòa cho xuôi.
Nàng rằng: "Trong bấy nhiêu lời,
Rào sau đón trước cho ai đó mà.
Chẳng tư-túi, chẳng trăng-hoa,
Tội chi mà thiết việc nhà người dưng."
Tía tai đỏ mặt bừng bừng,
Vật mình nàng lại vang-lừng nói ra;
"Cớ chi thiếp mới vắng nhà,
Đã lòng nhử nguyệt quyến hoa tơi-bời.
Vừa lòng thích ý thì chơi,
Nhà này còn có xem ai ra gì,
Cửa nhà lo-lắng sớm-khuya,
Sướng se mạ cạn đi về xiết bao.
No cơm thì rửng hồng mao,
Dục hà dục hĩ muốn sao thì làm.
Ai ngờ mặt sứa gan hầm,
Rắn toan gà luộc rượu tăm thỏa lòng.
Khác nào như nhện đánh vòng,
ếch kia trong giếng còn mong kẻ dò.
Đói thì đầu gối biết bò,
No cơm ấm cật còn lo-lắng gì.
Chẳng thương đến nỗi thê nhi,
Tìm mồi khuya sớm đã đi đỡ chàng.
Trở về vừa đến đầu tường,
Thấy con muông đứng cửa hang nó rình.
Đã lâu nghe vắng phong thanh,
Ngậm hơi như thóc đem mình về đây.
Lại e lũ khỉ buông dây (?),
Đến nhà nên nỗi nước này mà thương."
Ghen-tuông nhiều tiếng dở-dương,
Chàng van như cốc, bày tường đầu đuôi.
-"Canh khuya chưa nhắp còn ngồi,
Lạ vì vắng-vẻ thức coi cửa nhà.
Bỗng nghe ngoài chốn tường hoa,
Tiếng con muông sủa từ xa lại gần.
Chút vì nàng mới lỡ chân,
Hoặc khi muôn một trở ngăn dường nào.
Song nga chưa biết làm sao,
Bồi hồi gan vượn xôn-xao khúc tầm.
Thập-thò hầu rắp ra thăm,
Thấy nàng Bạch-thử đâm sầm vào hang.
Dữ lành hai lẽ chưa tường,
Giắt tay đã bảo có đường tìm ra,
Nói rằng trong nghĩa lân-gia,
Phải con muông đuổi thế sa đường cùng.
Một mình thân gái long-đong,
Dám xin cứu nạn ơn lòng chẳng quên.
Một làm phúc hai làm duyên,
Chẳng nề cho ở một bên hẹp gì.
Vừa ngồi một chốc lại đi,
Há rằng có ý-tứ gì cùng ai.
Cớ sao gieo nặng những lời,
Nghe ra chẳng chút vào tai cũng phiền!"
Nàng rằng sự đã quả-nhiên,
Nào ai nói đặt cho nên đoạn trường,
Vợ con vừa bước ra đường.
Ở nhà thắc-mắc lo-lường đứng trông.
Phỏng rằng cậy dạ cậy lòng,
Thế thì dỗ gái về phòng làm chi ?
Ngửa-nghiêng như ốc biết gì,
Bặt ngay tăn-hẳn dường dê mắc sừng.
Thôi thôi chẳng lọ nói-năng,
Dấu voi ruộng rạ nghĩ rằng kín thay.
Hang hầm ai dám móc tay,
Chuột nào lại dám cắn dây buộc mèo.
Ắt là toan rắp thế nào,
Không dưng ai có bỗng theo về nhà.
Ruồi kia một phút bay qua,
Biết là đực cái lọ là sự ai.
Ở trong chưa tỏ bằng ngoài,
Dễ mà ăn cáy bưng tai được nào.
Mê-say chìm-đắm má đào,
Như mèo thấy mỡ khát-khao thật là.
Già chẳng thương, trẻ chẳng tha,
Khác nào như ếch thấy hoa thì vồ.
Thuồng-luồng ở cạn có ru,
Mà toan bắt-chước đứa ngu sờ-sờ.
Chiếu-chăn nào có hững-hờ,
Mà như voi đói thì vơ dông-dài.
Quen mùi bận khác ăn chơi,
Có ngày cũng được như ai ghẻ tàu.
Bấy giờ khốn đổ cho nhau,
Miệng kênh gọi chó, tay mau đuổi ruồi.
Ví dù lầm phải vợ ai,
Giòng sông bè chuối mới hay cho đời.
Sáng tai họ, điếc tai cày,
Mà lòng lại tưởng đến người đào thơ.
Những mong lại có bao gìờ,
Cho khuây-khỏa dạ kẻo mơ-mẩn tình.
Ví không duyên nợ ba sinh,
Nàng sao gặp nỗi bất bình tới đây ?
Nghĩ càng như tỉnh như say,
Mặt như đầu lợn nhìn thầy trơ-trơ.
Nàng ngờ phải thuốc phải bùa,
Ve sầu xác rũ nó cho ăn quàng.
Cho nên thơ-thẩn võ-vàng,
Tìm lươn cho kíp cháo thang giã-giùng.
Kẻo lòng tơ-tưởng mơ-mòng,
Khỏi hồn Thục-đế, khõi lòng Đỗ-quyên
Bấy giờ tính nết đã quen,
Chắc rằng cua lỗ khó lên trên trời.
Nàng rằng bắt chạch đằng đuôi,
Kiện vô chứng cớ khôn đời đôi co.
Nguyên viết hữu, bị viết vô,
Minh đơn so với duyên-do thế nào.
Nó thời nhất hướng tại đào,
Đi lên rừng biết đường nào truy-đương.
Vô tang tích tịch tình tang,
Khôn làm lý-đoán cho tường được đâu.
Rầm nhà tiếng hỏi lao-xao,
Ai hay rằng sự dấu đầu hở đuôi.
Vẫn còn thèm thịt thèm xôi,
Ngày thường cơm tẻ thiếp nuôi lệ gì.
Có cãi rằng quí dịch thê,
Gái này chẳng dám nằn-nì thương-yêu.
Già rồi lận-cận bỏ liều,
Sá chi vú sếch lưng eo sồ-sề.
Chẳng ưa cà chín bầu già,
Tuổi đà dư lạp lịch đà quá niên.
Có trăng nên nỗi phụ đèn,
Chẳng ngon thể sốt, thời liền bến hơi.
Cười ra nước mắt hổ ngươi,
Khen ai khéo đặt nên lời ví xưa:
Còn duyên kẻ đón người đưa,
Hết duyên vắng ngắt như chùa bà Đanh.
Thế tình chuộng lạ tham thanh,
Thân tiên thân cú ra tình xấu chơi.
Cầu-nôm đồng thủng lạ đời,
Kẻo còn nhọc xác mệt người xông-pha.
Cắn đuôi tha trứng gần xa,
Cái thân tất-tả như bà đánh ong.
Dạ-tràng xe cát luống công,
Tò-vò nuôi nhện há mong cậy nhờ.
Ít lời chẳng muốn nói ra,
Những điều chàng ở ắt là chẳng quên.
Chèn nhau từng cạnh cho nên,
Trong bàn đã phỗng tay trên nực cười.
Tổ-tôm kia thực là tài,
Cửu-vạn bát-sách chờ hoài bán chi.
Âm-dương bác cục được thì,
Cứ chi đứng hậu cứ chi lối lè."
Chàng rằng: "Lời nói cũng kỳ,
Kể khoan kể nhặt thói quê thường tình.
Tiếng chua hơn nữa vắt chanh,
Toan đường tầm-ngải lấn cành được sao ?
Ta đây dễ nạt được nào,
Chẳng như kẻ quặp râu vào rẻ-roi.
Cũng toan níu-náu cho rồi,
Càng ngày càng một tỏ coi những màu.
Cắm đầu mà chịu vuốt râu,
Đã căm như ngựa cầm tàu mấy phen.
Giống lừa ưa nặng đã quen,
Thôi đừng dức-lác huyên-thiên tít mù."
Bấy giờ nàng lại tri hô,
Sắn quần sắn áo thập-thò cửa hang.
Rằng: "Đà mang tiếng tào-khang,
Những nhờ rễ mận rễ bàng cùng nhau.
Bây giờ nên nỗi cơ-cầu,
Bà làm cho tỏ ra đầu ra đuôi."
Miệng thời thở ngắn thở dài,
Tìm đường thăm lối kíp dời lân đông.
Cửa hang chuột bạch tới gần,
Đã phần sỉ-vả lại phần mỉa-mai.
Chuột bạch đỏ mặt tía tai,
Hỏi rằng: "Ai đấy mắng ai chốn này.
Con này chưa biết bà đây,
Lại toan tiếng nọ lời này đành-hanh."
Con mèo thủng-thỉnh góc thành,
Đến xem tranh đấu ra tình làm sao.
Hai bên hồn lạc phách xiêu,
Trèo non nhảy núi ra chiều lao-đao.
Lạ đường chuột cái sa ao,
Thực là báo ứng trời nào có xa.
Bạch thời chạy được về nhà,
Bước qua cống gạo liền xa mình vào.

Hồ Sinh cứu chuột cái và dạy dỗ chuột cái

Ngẫm xem báo ứng kíp sao,
Hồ-sinh đứng nấp tường đào thử trông.
Thấy con chuột cái vẫy vùng,
Trên bờ mèo chực, những mong ra chào.
Hồ dơ tay mới đuổi mèo,
Vén quần lội xuống cán bèo vớt lên.
Ráo lông tỉnh lại vừa an,
Cúi đầu mà lạy khoan-khoan trình-bày :
"Thiếp nay là phận thơ-ngây,
Phải chồng ruồng-rẫy tới đây gặp nàn.
Ơn ông cứu được thân tàn,
Thửa công-đức ấy muôn vàn xiết đâu.
Nhờ ông lượng bể cao sâu,
Hẳn cơ tạo hóa quên đâu kẻ hiền."
Sinh rằng: "Những tính hay ghen,
Hễ là già néo ắt liền đứt giây.
Rõ-ràng kể nói cho hay,
Ban khuya chuột bạch tới đây tìm mồi.
Phải con muông đuổi một thôi,
Vào hang này ẩn, an rồi lại ra.
Lạ gì gái đẹp đến nhà,
Chồng mầy cũng muốn lân-la với tình.
Song le phải gái kiên-trinh,
Ra chiều khôn lẽ dỗ-dành lại thôi.
Ngươi về chưa tỏ đầu đuôi,
Máu ghen nghếm-ngẩm nói lời éo-le.
Dẫu rằng đức Phật từ-bi,
Ắt là cũng giận huống gì chồng ngươi.
Há rằng việc ấy bởi ai,
Mình làm mình chịu, trách người sao nên.
Tính hay bạo hổ đã quen,
Dám tìm chuột bạch đánh ghen tại nhà.
Lại làm xấu bọn đàn-bà,
Oan lòng tiết-phụ nghĩ đà phải chưa."
Nàng vâng nghe biết sau xưa,
Rằng ơn ông dạy bây gìờ mới hay.
Mấy lời nghĩ lại hổ thay,
Trăng kia đã khuyết khôn xoay được tròn.
Trót đà cả giận mất khôn,
Bây giờ cắn rốn lại còn được ru."
Liệu lời Sinh mới dạy cho,
Lấy đường khuyên-giải điển mô mọi lời.
"Việc này cơn-cớ vì ngươi,
Liệu về nói dỗ chồng nguôi thì là.
Muốn cho yên cửa yên nhà,
Chẳng gì hơn ở thuận-hòa cùng nhau.
Dễ ai đội áo qua đầu,
Sao không nghĩ trước nghĩ sau cho tày.
Ái-ân là nghĩa nặng thay,
Vợ chồng há phải một ngày rồi quên.
Ở đời vô sự là tiên,
Mà đều yên-đẹp hơn bên cục-cằn.
Trót đà cùng chiếu cùng chăn,
Lẽ nào con nhện mấy lần vương tơ.
Tính sao như thể nước cờ,
Nghĩ cho một phải hai vừa thì thôi.
Chớ toan những sự tranh-phôi,
Bới bèo ra bọ, tanh-hôi cửa nhà.
Đàn-bà như hạt mưa sa,
Gặp sao hay vậy biết là đâu hơn.
Dẫu chồng trăm giận nghìn hờn,
Cũng nên bấm bụng van-lơn dỗ-dành.
Một câu nhịn, chín câu lành,
Chớ hề tật-đố cậy mình cậy công.
Mới là phải đạo xướng tòng,
Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngon,
Rang-rang thôi hết khéo-khôn đàn-bà.
Mèo lành ở mả đâu là,
Của yêu đâu có bày ra ở ngoài.
Thôi đừng đua sức thi hơi,
Há rằng ba chốn bốn nơi được nào.
Tránh voi xấu mặt hay sao,
Hãy xem sứa vượt được nào qua đăng.
Làm chi mặt vượt, mặt lăng,
Dứt dây chẳng sợ động rừng kia ru.
Thi bơi với giải thờì thua,
Đàn-bà đâu có tranh-đua cho đành.
Kíp toan cải dữ làm lành,
Ắt là sum-họp yến-anh một nhà.
Dịu-dàng phải phép đàn-bà,
Chẳng thời chua xót lệ sa ròng ròng."
Nàng vâng lời dạy ghi lòng,
Trở về van lạy cùng chồng dám sai.
Hồ-sinh về chốn thư-trai
Giở nghiên-bút mới ghi lời kẻo quên.
Nào ngờ vị-vật chính-chuyên,
Rằng: chê rằng cũng nên khen lệ gì.
Cũng hay trinh-tiết giữ nghì,
Vật còn dường ấy huống chi là người.
Ai hay đen bạc biến dời,
Tuy người chẳng biết nhưng trời đã hay.
Những người mặt dạn mày dày,
So xem ắt cũng chẳng tày muông dê.
Như lòng chuột đực khá chê,
Toan đường quyến-rũ dạ mê đạo lành.
ấy là chuột bạch chí thành,
Ví dù nó chẳng tiết-trinh ra gì.
Thấy chưng quả-phụ nhân nghì,
Chẳng khuyên đường chính mà mê thói tà.
Vậy nên eo-óc cửa-nhà,
Chẳng nhưng chỉ trách đàn-bà ngon ghen.
Khá khen chuột bạch trinh kiên,
Trăng hoa chẳng tưởng, giữ-gìn tấm son.
Dẫu rằng đá lở non mòn,
Tấm lòng tạc sắt ghi son chẳng dời.
Gặp cơn nhầm chốn sa vời,
Chẳng tham chìu-đãi nghe lời bướm ong.
Mặc ai cợt diễu thử lòng,
Gan vàng chẳng chuyển chẳng long chút nào.
Đương cơn gặp bước lao-đao,
Thế mà vẫn được ra vào ấm no.
Khá chê chuột cái dại-rồ,
Chồng đi hoa nguyệt chẳng cho được nào.
Phải điều khuyên-dỗ thấp cao,
Cớ chi đè nén sông giao cậy mình.
Làm trai ba bảy mới sinh,
Tài nào mà giữ một mình được ru !
Cả ghen nên nỗi cay chua,
Chồng ruồng-rẫy, phải sa hồ càng thương.
Người xưa câu ví còn gương,
Đàn-bà cả tiếng, tan-hoang cửa nhà,
Sự này dù thực dù ngoa,
Ghen-tuông thì cũng người ta thường tình.
Xét-xem giống vật cho tinh,
Mà cơ báo-ứng rành-rành chẳng sai.
Huống chi là đấng làm người,
Thửa lòng cho chính nào trời phụ ai.
Tóc tơ một chút chẳng sai,
Vậy nên làm chuyện đặt vài lời hoa.
Khi rồi, ai muốn ngâm-nga,
Gọi là theo thói nôm-na dõi truyền.

=HET=

|
Chú thích: