Long-khánh: Niên-hiệu đời Trần Duệ-tông từ năm 1373 đến 1377 sau Tây-lịch kỷ-nguyên.
Lộc-đỗng: Chỗ ông Chu-Hy đọc sách, chỉ chung chỗ ẩn-cư của các bậc cao-nhân.
thiện danh: nổi tiếng.
cách-vật trí-tri: Trong sách Đại-học dùng bốn chữ này để giải về thứ-tự của bậc đại-học : có cách vật mới trí-tri, có trí-tri mới thành ý, có thành ý mới chính-tâm v.v... Về sau dùng bốn chữ này để gọi về sự học rộng biết nhiều.
Lý-lê: tức là Hồ Quí-Ly.
hồ-đồ: phân-vân.
muông: con chó.
nam-nhi: con trai, ở đây chỉ con chuột đực.
run như cầy: cầy là con chó. Ta thường nói : run như cầy sấy : con chó ướt lông mà đem sưởi, ý nói run sợ.
Một giây: một lát
[Back to the top]
cáy vào hang cua: lúng-túng khó xoay-xở.
Dường như giống vạc, cớ gì ăn đêm: Nếu không phải như giống vạc, cớ gì lại đi ăn đêm.
nhắn cá, gửi chim: Bỏ thư vào bụng cá, buộc thư vào chân chim để đưa tin. Nói về trai gái đưa tin cho nhau bằng những cách thầm dấu.
Rằng ta: như ta đây.
thương-cẩu: Bởi câu : " Bạch vân hóa vi thương cẩu ", đám mây trắng hóa làm con muông xanh. Nói về về sự biến ảo thay đổi ở trong trời đất.
lang-quân tếch ngàn: chồng chết.
Rồng-rồng theo nạ: Nạ : mẹ rồng-rồng - con của cá quả ( cá tràu, cá lóc).
Chân le chân vịt: chân cao chân thấp, chạy ngược chạy xuôi, vất-vả.
ăn hét phải đào giun: đào giun để đánh bẫy chim hét.
làm lưng: làm vốn.
[Back to the top]
gió trăng: càn-dỡ, ở đây chỉ vào con chó.
Kinh quyền: Kinh là theo đạo thường, quyền là quyền biến, có thể thay đổi đạo thường, không cần phải câu chấp quá.
no đôi: đủ đôi.
Kinh quyền: không biết chừng.
quì: thứ hoa nở bao giờ cũng quay về chiều có mặt trời.
hướng dương: quay về mặt trời
đoài: phương tây, bởi chữ đoái, đọc chạnh đi làm âm bằng.
thanh sử: sử xanh, về đời xưa chưa có giấy, dùng mảnh tre để viết chữ, mặt cật tre có sắc xanh cho nên gọi là thanh-sử.
tòng nhất nhi chung: chỉ theo một chồng mà ở trọn đời.
chuyển-dao: chuyển-lay, ý nói thay lòng đổi dạ.
[Back to the top]
Dễ hầu gà luộc mấy lần: nói người đàn-bà cải giá.
họ Tào: Liệt-nữ truyện: nàng Lịnh-nữ bắt ép đi cải-giá, nàng bèn lấy dao cắt mũi để thủ tiết :
sân hòe: đời xưa Vương Hựu trồng ba cây hòe ở sân có nói rằng : Về sau con cháu phát-đạt, cũng như ba cây hoè tươi tốt ; đời sau dùng điển này để nói về sự con cháu hiển-đạt.
đội ơn chưng: đội ơn ở.
phương-tiện: nguyên là chữ ở trong kinh Phật, nghĩa là tự do tuỳ tiện, tự mình thu xếp cho mình. Ở đây nói về cách khuôn xếp cho tiện.
thờn-bơn một bề: cá thờn bơn mình dẹp, đã nằm một chiều thì không trở mình lại được, ý nói chịu yên một bề. ( Cá thờn-bơn ở Nam Việt gọi là cá lưỡi trâu).
Vu qui: bởi câu: "chi tử vu qui" ở trong kinh Thi : người con gái kia đi về nhà chồng.
kiên-ngạnh<: bền cứng.
tụy-hoán: tên hai quẻ ở trong kinh Dịch, tụy là họp, hoán là tan, cũng như tụ-tán.
[Back to the top]
thuyền bách: Bởi bài thơ bách-chu ở trong kinh Thi nói : người goá chồng như chiếc thuyền gỗ bách lênh-đênh ở giửa sông.
Ngựa qua cửa sổ: Bởi chữ bạch câu quá khích. Ngựa trắng chạy qua khe cửa, nói về đời người nhanh chóng
Gan vàng dạ ngọc cơ-hàn được đâu: Tuy có gan vàng dạ ngọc song ở vào cảnh đói rét, đã chắc là giữ vững được đâu.
phú-các thư-lâu: những bậc tài-nữ, được ở vào cảnh phong-lưu, phú-qúy.
Tạo-đoan: bởi câu Thiên địa chi tạo, tạo đoan hồ phu-phụ : đạo trời đất gây ra cái mối đầu từ đạo vợ chồng.
lệ-bì: hai miếng da thuộc; theo hôn-lễ đời cổ, dùng hai miếng da, một miếng của họ nhà trai, một miếng của họ nhà gái, đánh đổi nhau mỗi bên giữ một miếng để làm bằng.
cẩu-hợp: tự-hợp bằng cách tạm bợ.
dâm-bôn<: vì sự dâm đãng mà theo nhau.
phong-hóa chi nguyên: cái nguồn của phong-hóa và giáo-hóa.
[Back to the top]
Sự vong như thể sự tồn: thờ người lúc mất cũng lúc sống.
quê: tiếng cữ, nghĩa là sai, lẫn.
Lân-kinh: đức Khổng-tử chép kinh xuân-thu, đến chỗ được con kỳ-lân què, ngài không chép nữa, người sau gọi kinh xuân-thu là lân kinh.
Mao-giản: Sử của Mao-công, đời bấy giờ chưa có giấy, chép vào thanh tre.
Đời xưa mấy gái tiết hiền: ý nói xưa nay rất hiếm người tiết nghĩa ; có bản chép là : đời xưa mấy kẻ tiết hèn.
tính nước, lòng mây: tính lẳng-lơ.
Sớm đưa gã Lý, tối vầy chàng Trương: Trong tình-sử thường nói Trương-tam, Lý-tứ, anh ba họ Trương, anh tư họ Lý, nghĩa là nay người này mai người khác.
bia miệng: miệng người nói cũng như bia chép.
thế-sự vẫn thanh: cuộc đời vẩn đục hay trong.
chàng Tự-Cơ: Lã-hậu đời Hán, tư-thông với ngươi Tụ-Cơ, thường dấu ở trong bức vách.
[Back to the top]
Hồ-dương: tên một công-chúa ở đời Hán Quang-vũ.
Tống-công: Tống-Hoằng, một người hiền ở đời Hán Quang-vũ, Hồ-dương công chúa goá chồng, muốn Tống Hoằng bỏ vợ để lấy mình, nhưng Tống Hoằng không nghe.
Mày ngài được sánh bệ rồng mấy phen :Vũ-hậu hai lần lấy vua, trước lấy Đường Thái-tôn, sau lấy Đường Cao-tôn.
Vua Đường thoắt mới xe tiên: Vua Đường Cao-tôn mới mất.
Họ Trương đôi gã: Trương-địch-Chi và Trương-xương-Tôn, hai người đều được Vũ-hậu yêu-mến.
Điêu-Thuyền: một người tuyệt sắc ở cuối đời Đông Hán, con nuôi của Vương-Doãn.
Khi ra Lã-Bố khi vào Đổng-công: Điêu-Thuyền đã lấy Lã-Bố lại lấy Đổng-Trác.
Còn cầu thích ý: Có bản chép : còn cầu thích chí...
đình chủ: Người chủ trọ. Đây chỉ vào Hồ-sinh là người có nhà cho chuột Bạch ở nhờ.
Lợn ngồi dũi đất: Có bản chép : Lọn ngồi cụi đất.
[Back to the top]
Vắt chày ra nước: Câu tục-ngữ, ý nói người ráo-riết.
Miếng ăn đè cột: Câu tục-ngữ, ý nói dấu đi, cất đi thật kỹ, khó lòng lấy ra được.
Rán sành ra mỡ: Câu tục ngữ, cũng giống như vắt chày ra nước.
Bình dưa lọ muối: Có bản chép : Bình rau cọng muối,
Vặt đầu cá, vá đầu tôm: Câu tục-ngữ, ý nói giật cái nọ, bù vào cái kia, mà thiếu-thốn vẫn hoàn thiếu-thốn,
Liệu thưng: San xẻ nhiều ít gọi là cho có bữa ăn.
ai đào chẳng ra: Ai nạy ra dược.
nghĩ hòa thương cho: Hòa là cùng chung.
Tổ-nhân thiên-táng, huyệt do mối đùn: Trời để mả cho, chứ không phải người để. Tục truyền ngôi mộ nào được thiên-táng, thì mối đùn lên thành mả, người không phải đắp đất.
Hợi long: Lonh mạch khởi tự phương hợi là phương tây-bắc. Nhập thủ : vào phía đầu. Chuyển khôn : khôn là quẻ khôn, phương tây-nam, nghĩa là : long mạch đi từ tây-bắc vào phía đông rồi chuyển sang tây-nam.
[Back to the top]
Bao nhiêu hổ thủy cũng tuôn nhập đoài: Hồ tuỷ : Nước bên tay hổ là tay phải, Nhập đoài : Đoài bởi đoái đọc chạnh ra, đoái là phương tây.
vượng tướng: theo lý ngũ-hành, mộc, hỏa, thổ, kim, thuỷ; mộc ở ngôi mộc, thổ ở ngôi hoả v.v..là tướng, tướng nghĩa là giúp.
Đông phương tị ngọ: Tị là đông-nam, ngọ là chính-nam, mạch chuyển từ đông sang nam.
cây lộc: một phép xem bói, lấy lá cay hay bông hoa mà đoán sụ tốt xấu.
Tham-lang thủ mệnh: sao tham lang đóng ở cung bản-mệnh.
thiên chung: nghìn chung gạo, ý nói lương-bổng nhiều.
hoa tạ: nhà trồng hoa.
Thóc Chu, lúa Hán: hai triều vua rất giàu, kho tàng chứa nhiều thóc lúa.
Thạch Sùng: tên một người rất giàu ở đời Tấn,
Vả nhà lắm kẻ hiền-lành: Có bản chép : vả nhà mấy kẻ hiền-lành.
[Back to the top]
Dẫu rằng: gia-chủ chẳng hề dễ-dui: Có bản chép ; túng tằng ông Tí, chẳng hề dẻ-dui.
Tìm phương phụ-hậu: tìm cách giúp vào hào tử-tức.
bói rùa: cách bói bằng mai rùa.
bói hạc: cách bói giã-hạc, tức là cách bói gieo ba đồng tiền.
Già-pháp: Phép cầu cúng của nhà chùa.
hắc hổ: Hổ đen, vẽ hình hổ đen để trấn trạch.
Biển-Thước: tên một thầy thuốc rất giỏi về đời Xuân-thu.
Mã-đề, qui-bản, sà-sàng, lộc-nhung: Mã đề : tên một vị thuốc. Qui-bản : thứ cao nấu bằng mai rùa. Sà-sàng : tên một vị thuốc. Lộc nhung : nhung hươu. Bốn vị này đều là thuốc bổ.
Nhân-sâm, liên-nhục, mật ong: Có bản chép : nhân-sâm, hồng-nhục, mật ong.
ngũ nội: ngũ tạng.
[Back to the top]
lục-vị, thập-toàn: tên hai phương thuốc bổ.
thiên-phòng: vợ bé.
Dày nơi ngư-vĩ, cao nơi ngọa-tàm: Ngư-vĩ : đuôi con mắt. Ngọa-tàm : chỗ dưới mi mắt. Theo sách tướng, ngư-vỹ dày và ngọa-tàm cao là nhiều con.
Vững con, tươi cái, ngoài đun quá nồi: Theo cách xem chân dò con là ngón trỏ, cái là ngón giữa, ngoài là ngón ở ngoài, nồi là giữa; ngoài đun quá nồi là ngón ngoài chỉ vào ngón giữa.
nàng Oanh: Trong truyện Tây-sương nàng Thôi Oanh-Oanh là một nàng có cả tài sắc ở vào đời Đường.
tước bộ xà hành: bước nhảy-nhót như chim sẻ, đi vặn-vẹo mình như con rắn là những tướng rất hèn rất xấu.
khứng: chịu, bằng lòng, (tiếng cũ).
Đưa duyên nhờ gió gác Đằng: Bởi câu thơ : Thời lai phong tống Đằng-vương các : lúc gặp thời may mắn, thì làm việc gì cũng dễ-dãi, nhẹ-nhàng như gió thổi qua gác Đằng-vương.
Cách cựu Đỉnh tân: Cách và Đỉnh là hai quẻ ở trong kinh dịch, lấy tượng là thay đổi. Cách cựu Đỉnh tân là đổi cũ thay mới.
chung-chinh: Cùng chung, ở chung (tiếng cũ).
[Back to the top]
Thấy người cốt-ngạnh chẳng vì chẳng yêu: Không ưa những người cốt-ngạnh là những người trung-trực.
Lý-miêu đời Đường: Lý Nghĩa-Phủ ở đời Đường Cao-tôn, trong bụng rất hiểm-độc, nhưng ngoài mặt vẫn làm bộ nhu-mì, người đời bấy giờ đặt tên là Lý-miêu, con mèo họ Lý.
đố quốc: Làm con mọt của nước.
Cá ao lệ nữa cháy thành: Thành môn thất hỏa, họa cập trì ngư : Cháy ở cửa thành vạ lây đến cá dưới ao. Lệ là sợ. Có bản chép là cá ao sợ nữa cháy thành.
Cũng nhiều cấp phải: cấp là kíp.
oa-xá: Cái nhà nhỏ, cũng như cái hang, cái tổ, có bản chép là thảo-sa.
đuổi thỏ săn hươu: Đuổi con thỏ, săn con hươu, chỉ về sự tranh bá đồ vương ở trên đời.
bán thỏ buôn hùm: Bán con thỏ để mua con hùm, ý nói bỏ sự yên-lành, chuốc lấy sự nguy-hiểm.
Thấy mồi như trĩ bởi tham mắc giò: chim trĩ chỉ vì tham mồi mà mắc bẩy, ví như người ta chỉ vì tham danh lợi mà mắc tai-nàn.
ngay-ngáy: dáng bộ lo-lắng. Có bản chép là : còn hơn phảng-phất ăn bò mà lo.
[Back to the top]
hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng ví người được tự-do.
Sá chi chiều ấy: Chiều : bề, phương-diện.
cháy mày: gốc ở chữ nhiên mi, cháy lông mi, nói về sự cần-cấp ở ngay trước mặt.
Cưỡi rồng: Thừa long : cưỡi rồng, chỉ về sự cưới vọ, lấy vợ.
Ứng diềm hùng hủy: Kinh Thi : Duy hùng, duy bì, nam-tử chi tường, duy hủy, duy xà, nữ-tử chi tường, nghĩa là chiêm bao thấy con gấu, con báo là điềm tốt, sinh con trai ; chiêm-bao thấy con rắn, con rết, là điềm xấu, sinh con gái.
nát ngọc trầm châu: Làm cho viên ngọc vỡ, hạt châu chìm, ý nói tự-tử để thủ tiết với chồng.
thập nhị chi: mười hai hàng chi, tí là chuột đứng đầu hàng.
Thử-bì: da con chuột. Thơ Tướng-thử trong kinh Thi nói con chuột còn có da, ví như người ta cần phải có lễ-nghĩa.
Cơm nem đã trải tay chanh đã từng: hai câu này gốc ở hai câu tục-ngữ. Câu trên ý nói đã từng nuôi chồng từ lúc hàn-vi đi học hành, nơi xa nhà: câu sau nói đã từng nuôi chồng khi đau-yếu.
Thuyền ngư-ông tới doành mà chẳng nhưng: Thuyền người đánh cá đã tới doành nước, lẽ nào lại không chăng lưới ra để đánh cá
[Back to the top]
Chàng Lưu từ sánh ả Hằng: Lưu là Lưu-Thần, Hằng là Hằng-Nga ; chàng Lưu-thần vào núi Thiên-thai gặp tiên.
Bạch-viên xưa kết Tôn-sinh: Trong bộ Tục-thế-thuyết : vượn trắng hóa làm người, lấy Tôn-Khác sinh được hai con.
Bá-Nha đã gặp Tử-Kỳ: Bá-Nha là người gảy đàn hay . Chung-tử-Kỳ là người hiểu được tiếng đàn.
Bảo-sơn ai nỡ trở về tay không: Không ai đã vào núi có ngọc báu mà lại trở về tay không.
Qui dâm: Tính rùa đa dâm, người ta thường dùng trong tiếng tục-hoại, như ô-qui, lão-qui để dùng gọi nhữ hạng dâm-ô, đê-tiện..
Tràng-khanh tư ả Văn-quân: Tư-mã Tương-Như tên tự là Tràng-khanh có tư tình với nàng Trác-văn-Quân.
Tống-sinh dùng gái chủ-nhân chẳng vì: Tống-Ngọc phải lòng người con gái chủ nhà bên láng giềng, có làm bài thần nữ phú.
bạch-diện thư-sinh: Người học-trò mặt trắng, tiếng gọi chung hạng học-trò và các nhà văn-sĩ.
Một văn luận thử: Tô Đông-pha làm bài Hiệt-thử phú tả rõ cái tính tinh-quái của con chuột.
Chẳng quen khoét vách, chẳng hay leo tường : Nói chuột khoét thủng vách leo qua tường, nhưng ám-chỉ về sự trai gái khoét thủng bức vách để dòm nhau hay là trèo qua tường để đi theo nhau..
[Back to the top]
thiết ngọc thâu hương: Ăn trộm ngọc, ăn cắp mùi thơm, chỉ về sự dan-díu thầm-vụng.
Đáp tai: Bịt tai, có bản chép : Bưng tai làm mặt chẳng hay.
Dẫu lòng thu tưởng xuân tầm được chăng: Thu-tưởng xuân tần : Mùa thu tưởng nhớ, mùa xuân đi tìm, ý nói những sự mong ước hão, không bao giờ thành được sự thực.
Cũng đà mang tiếng răng răng bề ngoài: Bề trong tuy chưa có gì, nhưng bề ngoài đã mang tiếng rồi. Có bản chép : Cũng đà mang tiếng lăng-nhăng bề ngoài.
rừng mặt vách tai: Có bản chép rừng mạch vách tai.
Lũ hài: Lũ hài-nhi, lũ trẻ con.
Hoặc người về đó lời này tiếng kia: tiếng người, ở đây chỉ vào vợ chuột đực.
tang-bộc: Tang gian, trong bãi dâu : Bộc thượng : Trên bờ sông Bộc ; chỗ trai gái hẹn-hò nhau, Tên hai bài hát ở trong kinh Thi làm ra để chê thói dâm-bôn.
Trâm-anh lịnh tộc: Trâm là cái trâm cài đầu. Anh là cái dải mũ, chỉ chung về bực khoa-hoạn. Lịnh-tộc là họ danh-tiếng.
Quan-quan bảo điểu: Chim tốt tiếng kêu êm-dịu. Kinh Thi thơ " quan-quan thư-cưu", chim thư-cưu tiếng kêu êm-dịu ví như Chu-hậu khi đức-tính hoà-thuận, bao-dung mọi kẻ tì-thiếp.
[Back to the top]
Cát leo cù-mộc: cát một thứ dây leo, cù-mộc là cây to. Kinh Thi : nam hữu cù-mộc, cát-luỹ oanh chi : phương nam có cây to, dây cát-luỹ tựa vào mà leo lên, nói ví người vợ lẽ nhờ người vợ cả che-chở.
Thiên-hương quốc sắc như bông hoa đèn: Có bản chép : thiên-hương quốc-sắc não-nùng chiêu đăm.
Thiên cao mà lại thính ti: trời ở cao nhưng nghe thấp, nghĩa là sự hay dở ở thế-gian trời đều biết cả.
Bát-trân: tám món đồ nấu quí lạ.
mỹ-hào: đồ ăn ngon.
thanh-minh: một tiết trong mùa xuân, ta lấy tiết này làm ngày đi tảo mộ, ở đây có ý nói là vắng-vẻ buồn tẻ.
cương tỉnh phong thanh: Cương là bờ cõi, tỉnh là giếng nước, hiểu là làng xóm, phong là phong-tục, thói-nếp, thanh là thanh-danh, tiếng-tăm : nghĩa là thói nếp tiếng-tăm ở chỗ làng xóm.
tri danh: biết tiếng.
Mở-mang trời cũng có mình: Thiên sinh ư Tí : Trời mở ra từ hội Tí ; Tí là tượng con chuột, cho nên nói là : mở-mang trời cũng có mình.
Tại bình: nữ tử tại bình : người con gái ngồi trong bình-phong, nghĩa là ngồi một chỗ, không bước chân ra ngoài.
[Back to the top]
lý bắc lân đông: bên bắc làng, bên đông láng-giềng, ý nói người chỗ này người chỗ khác.
chung-tư: tên một bài hát trong Kinh Thi, chung-tư là con bọ ngựa, sinh nhiều con.
Thiềm cung: cung con thiềm-thừ, tức là mặt trăng.
Ép tình cá nước phải nài-nẫm chi: Có bản chép : lấy điều củ-củ phải nài-nẫm chi.
âm thịnh dương suy: khí âm-thịnh, khí đương suy, ý nói đàn-bà hơn đàn-ông.
Ơn dày trả nghĩa trăng hoa: lấy sự tình-dục mà đền lại ơn nghĩa.
Vợ chàng lo-lắng việc chi đã về: Có bản chép : vợ chàng đâu bỗng liền về tới nơi.
Thấy chàng đưa tiễn đề huề: Có bản chép : thấy chồng đưa tiễn một người.
Ngâm thơ mà giải lòng quê kẻo nồng: Có bản chép : Tức mình thơ-thẩn một bài liền ngâm.