Thủa: Theo cụ Trần trọng Kim thì Việt-ngữ chỉ có vần ua nên phải thủa mới đúng chứ không phải thuở.
gió bụi: Phong trần : Gió bụi có nhiều nghĩa:
1-Gió cuốn bụi tung, trời đất mờ mịt. Ví đời có nạn chiến-tranh.
2- Ở đời chịu nhiều nỗi gian-nan trong bước công-danh của phường quan lại -Thơ Đỗ Phủ : Bạc hoạn tẩu phong trần : Chức mỏng chạy trong gió bụi, tức là quan nhỏ; chịu nhiều nỗi khó khăn ,
3-Những gái kỹ nữ gọi là trụy-lạc phong trần : Rơi rụng nơi gió bụi.
Thơ Trương Tuần khi nghe trống đánh nổi giặc có câu : Bất biện phong trần sắc, an tri thiên địa tâm : Chẳng nhận được vẻ gió bụi, sao biết lòng trời đất. Ý nói họa chiến-tranh bởi trời đất sinh ra.
truân chuyên: Đi dùng-dằng, bước không tới, hay vất vả lao-đao.
Trường Thành: Đời chiến-quốc, rợ Hồ hay quấy nhiễu nước Yên, Triệu và Tần xây thành dài phía bắc để ngăn ; sauTần Thỉ-hoàng tóm thu cả sáu nước, nối những đoạn thành ấy làm bức thành dài muôn dặm gọi là Vạn-lý tràng-thành.
Cam Tuyền: Cung nhà Tần dựng trên núi Cam-tuyền gần đô-thành Tràng-an 200 dặm. Câu này ở nguyên văn "Phong hỏa ảnh chiếu Cam-tuyền vân". Phong hỏa là ngọn lửa lên nhọn cao đốt ở núi cao để báo tin giặc. Vì chưa biết dùng thứ gì báo nhanh chóng, phải dùng lối đốt lửa báo tin nên gọi Phong hỏa. Cũng gọi là Lang toại dùng phẩn chó sói lẫn củi đốt ngọn lửa lên cao không bị gió đàn.
Lang là chó sói. Toại là ngọn lửa lớn lên cao.
trao tay: bởi chữ Chữ Nguyên-văn dùng chữ Án kiếm là vỗ gươm hoặc chống gươm. Đây dịch "trao tay" có bản dịch là chống tay.
truyền hịch: là truyền lời hịch kể tội giặc mà vua sai đánh; xuất chinh là ra đánh. Chinh là đánh kẻ phạm tội (người lớn đánh kẻ nhỏ) cũng có nghĩa là đi, là đánh thuế, Chinh nhân : người đi xa. Chinh-phu : người chồng đi đánh giặc. Chinh-phụ người vợ có chồng đi đánh giạc.
Nước thanh bình ba trăm năm cũ: Thanh-bình là yên lặng thái-bình
Áo nhung: là áo giáp có kết vảy sắt đỡ tên bắn. Cũng gọi là Chiến-y-bào.
Sứ trời: bởi chữ Sứ-tinh ở nguyên-văn. Điển : Vua Hoà-đế đời Hán sai hai người sứ đến Ích-châu do-thám mà không cho quan thứ-sử châu ấy là Lý Trấp biết. Trấp xem thiên-văn thấy có hai sao sứ về Ích-châu nên biết trước.
[Back to the top]
niềm tây: nỗi riêng-tư của người ta.
thê noa: là vợ con. Kinh Thi : Lạc nhĩ thê noa là vui với vợ con mầy.
giòng hào kiệt: dịch chữ "Ngô-môn" ở nguyên-văn. Điền Ngô Khi là một tướng võ đời Chiến-quốc có võ-công lừng-lẫy, đánh đông dẹp bắc thiên hạ biết danh. Lý Bạch có câu : Yên-nam tráng-sĩ Ngô-môn hào, Thái-sơn nhất-trịch khinh hồng mao = Đất Yên-nam có kẽ tráng-sĩ giòng hào-kiệt nhà họ Ngô, ném non Thái nhẹ như cái lông chim hồng. Ý nói sự anh-hùng của người tráng-sĩ xem nhẹ tính-mệnh.
Xếp bút nghiên: Điển Ban Siêu đời Hán. Ban Siêu nhà nghèo đi viết thuê, một hôm phẫn chí tự nói rằng : Làm trai nên có chí lập công-danh nơi ngoài nghìn dặm như Phó Giới Tử và Trương Khiên, lẽ nào chịu bó tay bên chốn bút-nghiên, bèn xếp bút nghiên theo việc binh nhung ra xứ tây-vực ở 31 năm được nhiều công lớn được phong-tước Viễn đinh hầu khi về nhà đã quá 80 tuổi.
Thành liền: bởi chữ liên thành là những thành liền nhau. Điển Bắc-sử chép : Nước Triệu được hai hòn ngọc Bích của Biện Hoà tìm được tại núi Kinh-sơn. Sau vua Chiêu-vương nước Tần viết thư xin đem năm thành-trì đổi ngọc ấy. Về sau vật gì quí-báu gọi là quí-giá Liên thành- Bệ rồng nơi vua ngồi, tức là vua.
Thước gươm: Bởi chữ "tam xích" là ba thước, là tiếng danh-tự riêng của gươm. Hán-thư chép lời Hán Cao-tổ nói : Ngô dĩ bố y đề tam xích thủ thiên-hạ= ta mặc áo vải cầm ba thước mà lấy được thiên-hạ, ba thước tức là thanh gươm dài ba thước.
giặc trời: bởi chữ Thiên Kiêu. Điển Hán thư chép : Rợ Hung-nô có câu quốc thư của Thiền vu gởi Hán đế rằng : Nam hữu đại Hán, bắc hữ cường Hồ, Hồ nải thiên-tử chi kiêu tử giả, nghĩa là : Phương nam có nhà Đại Hán, phương Bắc có cường Hồ. Hồ chính là đứa con kiêu ngạo của thiên tử.
da ngựa: là da con ngựa, bởi chữ mã-cách ở điển Mã Viện đời Đông -Hán lĩnh chức Phục-ba tướng quân, từng có chiến công thu-phục xứ Giao-chỉ rồi lập trụ đồng để nêu giới hạn. Lại đánh dẹp bọn rợ Ngũ-Khê-Man khi già hơn 80 tuổi. Ông thường nói với bạn bè rằng kẻ trượng-phu lập chí là ; khi khốn cùng nên có lòng kiên nhẫn, khi già nua nên bạo-mạnh. Lại nói : làm trai nên chết chốn xa trường biên-ải, lấy da ngựa bọc thây chôn mới gọi là trai. Sau quả chết trong quân và được phong tước Tân-tức-hầu.
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao: Núi Thái-sơn lớn và cao nhất ở nước Tàu, lông ngỗng trời ( lông chim hồng) nhẹ nhất. Tư-mã-Tiên nói : "Người ta vẫn có cái chết, song cái đáng chết nặng như núi Thái-sơn, cũng có cái chết đáng nhẹ như lông chim hồng".
chiến bào: Chiến-bào là cái áo mặc đi ra trận, có kết vảy chép như vảy cá để đỡ tên bắn. Cũng gọi là nhung y và giáp, áo giáp.
[Back to the top]
Thét roi: dịch chữ Minh-tiên ở nguyên văn là tét nạt vừa đánh ngựa tiếng roi kêu trót trót giữa luồng gió thu. Minh-tiên cũng có nghĩa là một khí-cụ để dàn hầu, đè nó kêu trót trót như tiếng roi đánh, để răn người phạm phép.- Vỵ kiều cầu sông Vỵ, đời Đường thường sai quân ra bến sông Vỵ chống rợ Đột-khuyết.
Ngòi đầu cầu: Ngòi là cái lạch, dịch chữ câu ở nguyên-văn, có bản chép "ngoài đầu cầu"-sai.
Bộ khôn bằng ngựa, thủy khôn bằng thuyền: Câu này gồm hai câu nguyên văn, dịch ra một câu (chàng lên đường bộ, thiếp tự giận sao thiếp không bằng con ngựa. Chàng trẩy đường thủy, thiếp tự giận sao thiếp không bằng chiếc thuyền). Ngựa thuyền được theo chàng, mà thiếp phải xa chàng.
Thiên San: tên núi ở tỉnh Phụng-thiên, nhà Đường đánh Cao-ly thường đóng quân ở đấy. Thiên -sơn cũng là tên núi ở Tây cương; đời Đường rợ Vưu làm loạn, Tiết Nhân Quí làm chức Tổng -quản ra dẹp loạn chỉ bắn ba mũi tên giết được ba tướng giặc, bọn ấy rúng động sợ phải về đầu hàng
hang beo: bởi điển ông Ban Siêu khi đi sứ Tây vực, vào những miền nguy, thường nói cùng các quan liêu thuộc rằng : Không vào hang cọp sao bắt được cọp con (Bất nhập hổ huyệt an đắc hổ tử).
Lâu Lan, rằng theo Giới Tử: là tên hai người : Vua Chiêu đế nhà Đường sai Phó Giới Tử đi sứ đất Đại-uyển nước Qui tư. Giới tử đã dùng mưu cao bắt được vua Đại-uyển là Lâu Lan. Sau Tử được phong tước Nghĩa dương -hầu.
a name = "27">
Phục Ba:Điển ông Mã Viện.
tiếng trống: hiệu lệnh xưa ra trận nghe tiếng trống thì tới, tiếng chiêng thì lui
Hà Lương: Hà là sông, lương là cầu bắc trên sông, hay là rường nhà, ngày xưa đưa nhau thường đến chốn cầu sông.Thơ Lý Lăng viết cho Tô Võ có câu : "Huề thủ thượng hà-lương, dư tự mộ hà chi ?": Dắt tay nhau đến nơi Hà-lương, kẻ du-tử chiều nay đi đâu Du-tử là người ra đi nơi xa.
doanh Liễu: Tên một nơi đồn quân đóng. Hán thư chép vua Hán văn đế đến doanh Tế-liễu là nơi đồn của tướng Chu Á-Phu đóng để khao-thưởng quân-sĩ, thấy phép quân rất nghiêm, bèn khen rằng thật là một tướng quân xứng đáng vậy.
[Back to the top]
Tràng Dương: Tên một huyện ở tỉnh Hồ-bắc ; cũng có tên cung nhà Tần ở đất Tây-ninh.
Liễu dương: tức cây dương liễu.Vương Xương Linh đời Đương có câu thơ Khuê Oán : "Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, hối giao phu tế mịch phong hầu" = chợt thấy sắc cây dương liễu tươi xinh nơi đầu đường thì hối-hận sao ta khiến chồng ta đi kiếm sự công danh phong tước hầu nơi xa. Ý nói chồng đi đánh giặc vắng không cùng ai vui thú xem phong-cảnh ; ấy là lời người thiếu-phụ có chồng đi chinh thú nơi xa.
Tiếng địch thổi nghe chừng đồng vọng:
Câu nguyên-văn : "Khứ khứ Lạc-mai thanh tiệm viễn"> Nghĩa là :Khúc địch tên Lạc-mai khi đi nghe lần lần xa.
Thơ Lý Bạch : Kim dạ hà nhân xuy ngọc dịch, giang thành ngũ nguyệt lạc mai ba = Đêm nay người nào thổi địch ngọc, chốn thành bên sông tháng năm hoa mai rụng ?
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh:
ý lấy ở câu thơ của Mạnh hạo Nhiên đời Đương rằng : "Quân vọng bạch vân khứ, dư vọng thanh sơn qui" nghĩa là: chàng trông mây trắng khi ra đi, thiếp trông non xanh khi trở về.
Hàm Dương: tên đất . Ông Hiếu Công nhà Tần xưa đóng đô đất Hàn-dương nay thuộc xứ Thiểm-tây.
Tiêu Tương: là tên sông ở tỉnh Hồ-nam, hai sông hợp-lưu thành một.
ngàn dâu: bởi chữ Mạch thượng tang là nơi thôn quê trồng dâu gần bên đường.
"Mạch thượng tang" cũng là tên một khúc hát (Cổ nhạc phủ) của nàng La Phu gái có chồng ở nước Tần đi hái dâu mà Triệu vương muốn yêu, bèn đặt tiệc rượu mời nàng. Nàng đến đàn tranh và hát khúc ấy để tỏ mình có chồng; sau vương nghe lời hát lắm câu tỏ ý trinh-chính bèn thôi.Ý dùng của nguyên văn rất thâm mà dịch-gỉa không thể đem ra được, chỉ dịch "Ngàn dâu xanh ngắt một màu"v.v.. Vậy câu 63 là một lối văn phục tuyến như mũi chỉ may dấu kín, để sẽ tỏ nơi khác, nơi câu nguyên-văn số 351 đến câu 363.
Đêm trăng này nghỉ mát phương nao: Câu này lấy lời cổ thi :
"Kim dạ bất tri hà xứ túc, bình-sa vạn-lý tuyệt nhân yên"
nghĩa là: Đêm nay chẳng biết ngủ nơi nào ? nơi bãi cát bằng, muôn dặm không người ở.
Lại ở Đường thi cũng có câu :
"Kim dạ nguyệt minh hà xứ túc, cửu tiêu văn quyển bích sâm si". nghĩa là : Đêm trăng sáng này ngủ nơi nao, trông trên chín từng mây cuốn màu xanh biếc lắm vẻ so-le cao thăm-thẳm. Hai câu ấy toàn vịnh cảnh người chinh-phu.
Nội không muôn dặm xiết bao dãi dầu: Bài điếu Cổ-chiến-trường của Lý Hoa có câu : " Hạo hạo hồ bình sa vô ngân quýnh bất kiến nhân nghĩa là : Mênh-mông kia nơi bãi cát bằng muôn dặm vắng teo chẳng thấy người.
bon: tức bôn nghĩa là chạy.
[Back to the top]
Bạch Thành: là Bạch-đăng-thành là nơi ông Hán Cao-tổ đã từng bị vây ở đấy.
Thanh Hải: tên đất rợ Thổ Cốc-Hồn đời Đường hùng-cứ ở đấy, có năm bộ--lạc ở phía tây-bắc nước Tàu. Đất ấy có hồ nước mặn rộng. Lý Bạch có câu thơ ở bài Quan-sơn khúc : Hán hạ Bạch-đăng thành, Hồ khuy Thanh-hải khúc nghĩa là : nhà Hán xuống thành Bạch-đăng. Rợ Hồ dòm bãi Thanh-hải
áo giáp: là áo ra trận có vảy thép kết để đỡ tên bắn- Cũng gọi là nhung-y, chiến bào và thiết y.- Cổ-thi : Hàn quang chiếu thiết y : áng sáng lạnh soi áo sắt.
Lòng quê qua đó mặt sầu chẳng khuây: thơ Lý Bạch : "Thú khách vọng biên sắc, tư qui đa khổ nhan" : Kẻ chinh-thú trông sắc trời nơi biên trấn, nhớ về lắm vẻ cay-dắng ở nét mặt.
trướng gấm: bởi chữ Cẩm-trướng ; màn gấm, là nơi nhà vua ở.
Hãn Hải: hay là Hàn-hải là nơi bãi Sa-mạc.
Tiêu Quan: tên một cửa aỉ ở Quang-trung là nơi hiểm-trở, các Đường, Tống xây luỹ, đóng đồn mà chống rợ Thổ-phần.
Lên cao trông thức mây lồng: điển ông Địch Nhân Kiệt đời Đường, đi đánh giặc xa nhà, khi lên núi Thái-hàng trông đám mây trắng ở xa xa, nói với quân-sĩ rằng : "Cha mẹ ta ở dưới đám mây trắng ấy" : Ngô thân xá ư kỳ hạ. Đây dùng ý nói nhớ nhà.