11.- Ngư ông vớt Vân-Tiên lên, đem về nhà Võ-công (câu 945 - câu 1018) lụy: gặp hại . Bó buộc.
Vân-Tiên mình lụy giữa giòng,
Giao-long dìu-dắt vào trong bực rày.
May vừa trời đã sang ngày.
Thuyền chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Khiến con vầy lửa một giờ.
Ông hơ bụng dạ, bà hơ mặt mày.
951.-Vân-Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn-ngơ hồn -phách như say mới rồi.
Ngỡ than mình phải nước trôi,
Hay đâu mình hãy đặng ngồi dương-gian.
Ngư- ông khi ấy hỏi-han,
Vân-Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng:" Người ở cùng ta.
"Sớm mai hẩm-hút một nhà cho vui".
Tiên rằng: " Ông lấy chi nuôi,
"Thân tôi như thể trái mùi trên cây.
961.- "May đà trôi-nổi đến đây,
"Không chi báo đáp mình nầy trơ trơ ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
"Dốc lòng nhân-nghĩa há chờ trả ơn ?
"Nước trong rửa ruột sạch trơn,
"Một câu danh-lợi chi sờn lòng đây.
"Rày doi, mai vịnh vui-vầy,
"Ngày kia hứng gió, đêm nầy chơi trăng.
"Một mình thong-thả làm ăn,
"Khỏe quơ chày kéo, mệt quăng câu dầm.
971.- "Nghêu-ngao nay chích mai đầm.
"Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
"Kinh-luân đã sẵn trong tay,
"Thung-dung dưới thế vui say trong trời.
"Thuyền nan một chiếc ở đời,
"Tắm mưa trải gíó trong vời Hàn-giang."
Tiên rằng : " Vậy cũng một làng,
"Võ-công người ở gần đàng đây chăng ?"
"Khỏi ba khúc vịnh thời lần đến nơi."
981.- Tiên rằng: " Xưa đã gá lời,
"Sui-gia bao nỡ đổi lời chẳng thương.
"Vợ chồng là đạo tao-khương,
" Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
"Trăm năm muốn trọn ân-tình
"Đương khi hoạn-nạn ai đành bỏ nhau.
"Chút nhờ cứu tửơn sâu,
"Xin đem tới đó trước sau cho tròn."
Ngư rằng : " Làm đạo rể con,
"Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim.
991.- "Sợ bay mà mỏi sức chim,
"Bơ vơ cảnh lạ khôn tìm cây xưa.
"E khi chậm bước tới trưa,
"Chớ đi sông cũ bến xưa mà lầm.
"Mấy ai ở đặng hảo-tâm,
"Nắng đun chót nón, mưa dầm tả tơi.
"Mấy ai hay nghĩ việc đời,
"Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang-giầu.
"Đã ba thứ tóc trên đầu,
"Gẫm trong sự -thế thêm âu cho đời."
1001.- Vân-Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng-đã tách vời đưa sang.
Dắt Tiên vào chốn hậu-đàng,
Võ-công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ thế-gian cười,
Một lời gượng gạo chào người ngày xưa:
"Ngư-ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn."
Ngư rằng : " Tôi chẳng lòng sờn.
"Xin tròn nhân-ngãi còn hơn bạc vàng.
1011.- "Nhớ xưa trong núi Lư-san,
"Có ông ngư-phủ đưa chàng Ngũ-Viên.
"Tới sau đình-trưởng đỗ thuyền,
"Giúp người Hạng-Võ qua miền Ô-giang.
"Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
"Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi-nhân.
"Một lời gắng giúp keo-sơn,
"Ngư-ông từ-giã lui chưn xuống thuyền.
< trong>12.- Võ công giả đưa về Đông-thành, đem Vân-Tiên bỏ trong hang Thương-tòng (câu 1019 - câu 1076)
Võ-công không ngớt lòng phiền,
Ân-tình thế-lợi khó tuyền đặng vay.
1021.- Dạy Tiên : " Ngươi hãy ngồi đây,
"Cho ta trở lại sau này liệu toan."
Công rằng : " Hỡi mụ Quỳnh-Trang,
"Dò lòng ái-nữ Thể-Loan thế nào ?
"Mặc con toan liệu làm sao,
"Vốn không ép vợ, nỡ nào ép con."
Loan rằng : " Gót đỏ như son,
"Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn ?
"Ai cho sen muống một bồn.
"Aì từng chanh khế sánh phồn lựu-lê.
1031.- "Thà không trót chịu một bề,
"Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất-phu.
"Đã công chờ đợi danh-nhu,
"Rể đâu có rể đui-mù thế ni,
"Đã nghe người nói hội này,
"Rằng : Vương-Tử-Trực chiếm rày thủ-khoa
"Ta dầu muốn kết sui-gia,
"Họ Vương họ Võ một nhà mới xinh."
Công rằng : "Muốn trọn việc mình,
"Phải toan một chước dứt tình mới xong.
1041.- "Nghe rằng : "Trong núi Thương-tòng.
"Có hang thăm-thẳm bịt-bùng khôn ra.
"Đông-thành ngàn dặm còn xa,
"Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu ?"
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân-Tiên ngồi trước nhà cầu thở-than.
Võ-công ra trước dỗ chàng:
"Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông-thành."
Ra đi đương lúc tam-canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân-Tiên.
1051.- Bỏ rồi rón-rén bước liền,
Xuống ngay chèo quế dời thuyền tách xa.
Tiên rằng : " Các chú đưa ta,
"Xin đưa tôi tới quê nhà sẽ hay.
"Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
"Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên."
Lặng nghe vắng tiếng hai bên,
Trong hang tăm-tối đá trên chập-chồng.
Vân-Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ-công hại mình.
1061.- Nực cười con tạo trớ-trinh,
Chữ duyên tráo-trác, chữ tình lãng-xao.
Nghĩ mình tai-hại biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ, gặp đàng bẫy cheo.
Trong hang sau trước quạnh-hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi ?
Oan-gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân-thể còn gì mà toan.
1071.- Đã đành xa cõi nhân-gian,
Dựa mình vào chốn thạch-bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò.
Sương sa lác đác mưa tro lạnh-lùng.
Năm ngày chịu đói-khát ròng.
Nhờ ba hườn thuốc đỡ lòng hôm mai.
|
|
Chú thích:
giao-long: rồng.
dương-gian: khoảng dương. Cõi dương . Tức cõi đời này..
kinh-luân: giỏi việc chính-trị.
thung-dung: thư-thái, thong-thả.
tao-khang: tấm mẳn . Ý nói : vợ chồng lúc khó có nhau, giàu chẳng nên phụ, phải nhớ cái hồi tấm mẳn hẩm-hút.
ân-tình: ân-huệ.
cứu tử: cứu cho khỏi chết.
hảo tâm: tấm lòng tốt đẹp.
tả tơi: có nhiều bản chép là : Nắng toan giúp nón, mưa dầm giúp tơi .Tuy nhiên xét kỹ, câu của bản Trương Vĩnh Ký vẫn hay hơn.
âu: do chữ ưu : lo-buồn.
chẳng-đã: ý nói cực chẳng-đã mới phải đưa Vân Tiên qua nhà Võ-công, vì Vân-Tiên nằng-nằng kêu cầu, chớ thật lòng ông chài vốn đã thấy xa về tình đời, không dám tin ở lòng tốt của người ta như Vân-Tiên.
hậu-đàng: nhà sau.
thế-gian: cõi đời.
sờn: có nhiều bản chép :"... lòng lão chẳng sờn" E không được hay như bản của Trương Vĩnh Ký chép như trên.
Ngũ-Viên: Ngũ Viên tự là Tử-Tư. Người nước Sở . Một danh-tướng vì cừu cha anh bị giết về tay Sở Bình-Vương nên bỏ Sở sang Ngô. Trong khi ra đi, bị vua Sở tập-nã gắt-gao, may được nhiều bậc cao-sĩ cứu giúp. Trong số ấy có người lái đò đưa giúp Ngũ-Viên sang sông Ngạc-chữ, nhưng không khứng phân tỏ tên họ để cầu đền ơn. Ngũ đành cáo biệt xưng tạ chẳng cùng và gọi là Ngư-trượng-nhân. Nhưng trước khi từ-giã ra đi, Ngũ còn trở lại dặn Ngư-phủ rằng: "Bây giờ tôi đi, như sau có truy binh tới, xin chớ lậu việc tôi ra ".Tử-Tư đi rồi, ngư-phủ tự nghĩ. "mình đã trải lòng nhân, mà người vẫn có ý ngờ. Sau này truy binh dẫu có qua thuyền khác đuổi theo, thì tâm-sự mình chỉ có một mình mình biết, chớ có ai biết đâu. Chỉ một chết là hết mang tiếng ". Bèn nhảy xuống sông mà chết.
Hạng-Võ: người đã dựng ra nước Tây Sở, hiệu là Bá-Vương, đương đầu với Hán Lưu-Bang, gây nên cuộc Hán Sở tranh hùng, sau khi dứt nhà Trần. Về sau, Hạng-Võ quân thua lui về Ô-giang, có người đình trưởng (đời Hán, cứ mười dặm đất thì gọi là một đình, đặt người đình-trưởng để phòng giữ trộm cướp) chèo thuyền rước Hạng-Võ. Nhưng đi dến giũa sông, Hạng-Võ nghĩ thẹn, cắt đầu tự-vẫn.
ân-tình thế-lợi: ân-huệ và tình cảm đối chọi với quyền-thế và lợi-lộc.
ái nữ: con gái yêu.
thất-phu: kẻ chẳng ra gì,
danh-nhu: người học-trò có danh.
thủ-khoa: người đậu đầu trong khoa thi hương.
nhà cầu: nhà cất ở dưới mé sông để ngồi hóng gió mát.
tam canh: canh ba. Có bản chép là : tan canh
nhân-gian: khoảng con người ở. Cõi đời.
thạch-bàn: hòn đá lớn.