13.- Du-thần cứu ra khỏi hang, gặp lão tiều cõng Vân-Tiên về nhà (câu 1077 - câu 1118) du-thần: thần đi rong các nơi để xem xét mọi việc..
Du-thần xem thấy ai hoài,
Xét trong mình gã có bài phù-tiên.
Mới hay là Lục Vân-Tiên,
Cùng nhau dìu-dắt đều liền đem ra,
1081.- Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại-lộ trời đà hừng đông.
Du-thần trở lại sơn-trung,
Vân-Tiên còn hãy giấc nồng mê-man.
Lão tiều cơm gói săn-sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới đường đại-lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở-than.
Hay là yêu-quái tà-gian,
Rung cây nhát lão làm đường hại nhân.
1091.- Lão tiều liền bước lại gần,
Thiệt là một gã văn-nhân mắc nàn,
Chi bằng lên tiếng hỏi-han :
"Nhân sao mắc việc tai-nàn thế nây ?"
Vân-Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội-vàng gượng dậy trình-bày trước sau:
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế-sự gật đầu thở-than :
"Ít người trong tuyết đưa than,
"Khó ngồi giữa chợ ai màng đoái thương."
1101.- Vân-Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn-dật biết đường thảo-ngay.
"Ngửa trông lượng cả cao-dày ,
"Cứu trong một buổi, ơn tày tái sinh.
"Mai sau về tới Đông-thành,
"Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi."
Lão tiều mới nói : "Thôi thôi,
"Làm ơn mà lại trông người sao hay ?
"Già hay thương kẻ thảo-ngay,
"Nầy thôi để lão dắt ngay về nhà."
1111.- Tiên rằng: " Trong dạ xót-xa,
"Nay đà sáu bữa không hòa mùi chi.
"Lại thêm rũ liệt tứ chi,
"Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi."
Lão tiều nầy ngỡ nực cười,
Mở cơm trong gói, miệng mời Vân-Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
"Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà."
14.- Hớn-Minh đem Vân-Tiên về chùa (câu 1119 - câu 1264)
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn-Minh.
1121.- Lão tiều lật đật bôn-trình,
Hớn-Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân-Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: " Dám hỏi nhân-huynh,
"Cớ sao nên nỗi thân-hình thể ni ?"
Tiên ràng: "Chẳng xiết nói chi,
"Thân nầy nào có khác gì cây trôi.
"Lênh-đênh gió dập sóng dồi,
"Rày đây mai đó khôn rồi gian-nan."
1131.- Minh rằng: " Đây khó hỏi-han,
"Xin vào chùa sẽ luận-bàn cùng nhau."
Tiều rằng: " Chẳng dám ngồi lâu
"Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn-Minh quỳ gối lạy liền :
"Ơn ông cứu đặng Vân-Tiên bạn lành.
"Nầy hai lượng bạc trong mình,
"Tôi xin báo đáp chút tình cho ông."
Tiều rằng: " Vốn lão tình không,
"Một mình ngơ-ngẩn non tòng hôm mai.
1141.- "Tấm lòng chẳng muốn của ai,
"Lánh nơi danh-lợi chông-gai cực lòng.
"Kìa non, nọ nước thong-dong,
"Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
"Công-hầu phú-quí mặc ai,
"Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày."
Vân-Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm-sơn,
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.
1151.- Tiên rằng: " Đã gặp khoa nầy,
"Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì ?"
Minh rằng: " Xưa dốc xuống thi,
"Gặp nơi miếu-võ đề đi một lần.
"Anh thì về trước tỉnh thân,
"Tôi thì mang gói sau lần ra kinh.
"Đi vừa tới huyện Loan-minh,
"Gặp con quan huyện Đặng-sinh là chàng.
"Giàu sang ỷ thế dọc ngang,
"Gặp con gái tốt cường gian không nghì.
1161.- "Tôi bèn nổi giận một khi,
"Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
"Mình làm nỡ để ai lo,
"Bó tay chịu trói nộp cho huyện-đàng.
"Án đày ra quận Sóc-phang,
"Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây,
"Vừa may mà gặp chùa này,
"Mai danhẩn-tích bấy-chầy náu-nương."
Vân-Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc tai-ương phận mình.
1171.- Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thương cội xuân-huyên,
"Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
"Trông con như cá trông dào,
"Mình nầy trôi-nổi phương nào biết đâu ?
"Vầng mây giăng bạc trên đầu,
"Ba năm chưa trọn một câu sinh-thành.
"Hữu tam bất hiếu đã đành,
"Tiểu-đồng trước đã vì mình thác oan.
1181.- "Tưởng thôi như cắt ruột gan,
"Quặn đau chín khúc, chứa-chan mấy lần."
Minh rằng: " Người ở trong trần,
"Có khi phú-quý có lần gian-nan.
"Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
"Gặp khi lửa đỏ máu càng thêm xuê.
"Thôi thôi anh chớ vội về,
"Ở đây nương-náu toan bề thuốc thang.
"Bao giờ hết lúc tai-nàn,
"Đem nhau ta sẽ lập đàng công-danh.
1191.- "Cam-La sớm gặp cũng xinh,
"Muộn mà Khương-Tử cũng vinh một đời.
"Nên hư có số ở trời,
"Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong."
Vân-Tiên khi ấy an lòng,
Ở nơi am-tự bạn cùng Hớn-Minh.
Võ-công làm việc trớ-trinh,
Dứt tình họ Lục, mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể-Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
1121.- Ngày này trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp-gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử-Trực vừa về.
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân-Tiên.
Công rằng: " Chớ hỏi thêm phiền,
"Trước đà lâm bệnh huỳnh-tuyền xa chơi.
"Thương chàng phận bạc trong đời,
"Cũng vì Nguyệt-lão xe lơi mốì hồng."
Nghe qua Tử-Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
1211.- Than rằng: " Chạnh nhớ linh xưa,
"Nghĩa đà kết nghĩa, tình chưa phỉ tình.
"Trời sao nỡ phụ tài lành,
"Bảng vàng chưa thấy, ngày xanh đã mòn.
"Cùng nhau chưa đặng vuông tròn,
"Người đà sớm thác ta còn làm chi ?
"Trong đời mấy bực cố tri,
"Mấy trang đồng đạo, mấy người đồng tâm ?"
Công rằng: " Ta cũng thương thầm,
"Tủi duyên con trẻ sắt-cầm dở-dang.
1221.- "Thôi thôi khuyên chớ thở-than,
"Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
"Tới đây thì ở lại đây,
"Cùng con gái lão sum-vầy thất-gia.
"Phòng khi hôm sớm vào ra,
"Thấy ngươi Tử-Trực cũng là thấy Tiên."
Trực rằng: " Ngòi viết dĩa nghiên,
"Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
"Vợ Tiên là Trực chị dâu,
"Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì.
1231.- "Chẳng hay người học sách chi,
"Nói sao những tiếng dị kỳ khó nghe?
"Hay là học thói nước Tề,
"Vợ người Tử-Củ đưa về Hoàn-Công.
"Hay là học thói Đường cung,
"Vợ người Tiểu-Lạc sánh cùng Thế-Dân.
"Người nay sao phải nhà Tần,
"Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm.
"Nói sao chẳng biết hổ thầm,
"Người ta há phải là cầm thú sao?"
1241.- Võ-công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trăn khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể-Loan trong cửa bước ra,
Miệng chào: "Thầy Cử tân-khoa mới về,
"Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
"Lỡ bề sửa trấp, lỡ bề nâng khăn.
"Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,
"Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
"Chẳng ưng thì cũng làm khuây,
"Nỡ buông lời nói chẳng vì, chẳng kiêng?"
1251.- Trực rằng: "Ai Lữ-phụng-Tiên,
"Phòng loan đem thói Điêu-Thuyền trêu ngươi?
"Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
"Lòng sao mà nỡ buông lời nguyệt hoa?
"Hổ hang vậy cũng người ta,
"So loài cầm thú vậy mà khác chi?
"Vân-Tiên anh hỡi cố-tri,
"Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông-thành.
1261.- Võ-Công hổ thẹn trong lòng,
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan.
Thể-Loan cùng mụ Quỳnh-Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
|
|
Chú thích:
ai hoài: ôm-ấp sự buồn thảm.
phù-tiên: tiên-phù : bùa tiên.
đại-lộ: đường lớn.
sơn-trung: trong núi.
là chừng: có bản chép : Nhắm đường đại- lộ dè chừng.
tà-gian: vạy-vọ, xảo-trá.
hại nhân: hại người.
văn-nhân: người có văn-học.
nây: do chữ ni chuyển ra, viết là nây để cho ăn vần.
ẩn-dật: ở ẩn mà tự vui.
tái-sinh: làm sống lại lần nữa.
tứ chi: hai tay và hai chân.
bôn-trình: đi gấp trên đường.
cố tri: quen biết cũ.
nhân-huynh: người anh có nhân. Tiếng xưng hô.
Lênh-đênh: cô-đơn. Một mình bơ-vơ
gian-nan: khốn khỗ, khó-khăn
báo đáp: đền bù lại
lâm-sơn: rừng núi
hoàn: trở về
tỉnh thân: thăm nom cha mẹ
cường gian: lấy sức mạnh làm điều trái
nghì: do chữ nghiã biến ra
huyện-đàng: quan huyện. Nhà quan huyện.
ẩn-tích: dấu-diếm dấu-vết.
tai-ương: tai-nạn, họa hại.
xuân-huyên: mẹ
sinh-thành: sinh ra nuôi-nấng cho nên người.
bất hiếu hữu tam: bất hiếu có ba : (không con là tội trọng). Câu này ý nói : chưa kịp lập gia-đình thì mẹ đã chết, đáng tội bất hiếu. Xuất xứ ở câu nói của Mạnh-tử . Trong "tứ thư tập chú" Chu Hy chú-giải về ba điều bất hiếu rằng : nhà nghèo, cha mẹ già yếu, mình không mưu tính việc làm để nuôi mẹ, ấy là một bất hiếu. Hùa theo ý muốn chẳng hay để hãm cha mẹ vào việc bất nghĩa, ấy là hai bất hiếu. Không lấy vợ đẻ con, làm tuyệt nòi giống của cha mẹ, ấy là ba bất hiếu.
phú-quí: giàu-sang.
gian-nan: khốn khổ, khó khăn.
Cam-La: 12 tuổi làm tướng-quốc ở Tần.
Khương-Tử: Khương tử Nha 81 tuổi mới nên danh hiển đạt.
am-tự: chùa, am.
lâm bệnh: bị bệnh.
huỳnh (Hoàng-tuyền): suối vàng.
Nguyệt-lão: Nguyệt-hạ lão nhân :ông già dưới nguyệt. Người chủ-trương việc định đôi cho người ở thế-gian (xem chú-thích ở trước)
mối hồng: dây tơ đỏ buộc chân những cặp có nhân-duyên với nhau. Lại có tích khác : Trương gia Trinh có năm người con gái. Muốn gả một người cho Đặng Nguyên Chấn, mà không biết phải gả người nào. Mới bày :5 người con của Trương thì ngồi sau một cái màn, cầm 5 sợi tơ, mỗi người mỗi màu tơ. Đặng thì đứng ở ngoài, hễ nắm được mối tơ của ai thì cưới người đó. Đặng lựa sợi tơ đỏ, nhằm người thứ ba. Sau ăn ở đời với nhau.
cố tri: quen biết cũ.
đồng đạo: cùng sùng-phụng một lẽ phải.
đồng tâm: cùng lòng.
sắt cầm: đàn sắt và đàn cầm, hai thứ hoà với nhau rất rất hiệp. Nói về việc vợ chồng.
thất-gia: nhà cửa. Nói về việc định đôi lứa.
Hoàn-Công: Vua Hoàn-công nước Tề cướp vợ của anh là Tử-Củ, rồi giết Tử-Củ đi.
Đường-cung : cung nhà Đường.
Tiểu-Lạc: em của Lý Thế-Dân bị Thế-Dân giết đi rồi cướp lấy vợ, lên làm vua tức vua Đường Thái tông (627-649).
Dị Nhân lấy lầm: Lữ Bất Vi coi tướng rất giỏi, biết Đinh Dị Nhân về sau có tướng làm vua, bèn đem người vợ có thai được mấy tháng mà gả cho Đinh để toan chiếm-đoạt, lấy họ Lữ dứt họ Đinh. Dị Nhân sau làm vua tức Tần Trang-tương vương, còn người thiếp của Lữ mà Dị Nhân đã lấy lầm, sinh ra được một trai sau nối ngôi vua tức Tần Thỉ-hoàng.
Lữ-Phụng-Tiên: Lữ-Bố bị sắc Điêu-Thuyền mà hư.
nguyệt hoa: trăng và hoa là hai vẻ đẹp đáng yêu. Chỉ về lòng ham muốn tình-dục.
thất tình: trái mất tình luyến- ái của mình
cư tang: ở vậy chịu tang.