Theo chân, đồng-tử năm ba,
100.- Con long-câu, cái tỳ-bà ruổi mau.
Pha non trúc, trải ngàn dâu,
Vàng hiu-hiu đón, ngọc làu-làu đưa.
Chào én sớm, hỏi nhạn trưa,
Ba tuần trăng đã, thì vừa tới nơi.
Phun châu nhả ngọc đua tài,
Giải-nguyên thoắt đã tên bài bảng ngay.
Đưa tin về đến nhà hay,
Tức thì lại tỏ đường mây tếch chừng.
Bảng xuân nay đã dự mừng,
110.- M uôn hồng nghìn tía a> tưng bừng đón ai
Qua dậm liễu, khỏi ngàn mai,
Ướm đào, hỏi mận tới vời thần-kinh.
Phồn-hoa thay, thú hữu tình,
Công-hầu xe ngựa, tường khanh lâu-đài.
Mây tuôn, sĩ-tử đòi nơi,
Mới hay thi mạng, học tài khéo xinh !
Lạ thay danh-giá như sinh,
Bảng người thì bốn, tên mình có ba.
Lòng trời còn dấm tài hoa,
120.- Khôi nguyên dành để đến khoa sau này.
Bước ra thẹn mặt châu mày,
Công danh đôi chữ dễ khuây-khỏa lòng !
Đi không lại trở về không,
Thẹn công chúng bạn, sợ cùng mẹ cha.
Chẳng bằng ta lập chí ta,
Ba thu thấm-thoát có là bao lâu.
Làm chi thắc-mắc thêm sầu,
Chim còn đón gió, rồng hầu đợi mưa.
Biết đâu miệng thế khôn lừa,
130.- Vén mây, nhẩy sóng bấy giờ sẽ hay.
Vả nghe Kim-cải độ này,
Trông lên đường cũ bụi bay lối về.
Mấy tài dẹp loạn phù nguy,
Tay mình thì chửa đến khi phất cờ.
Tống thần những mặt ngẩn ngơ,
Xôn-xao tơ trúc, thờ-ơ bác đồng.
Xanh-xanh chẳng giúp anh hùng,
Thì chi lũ kiến đàn ong tơi-bời.
Cho nên lẩn-thẩn quê người,
140.- Tìm nhà thanh-vắng, tiện nơi tập-tành.
Một đèn, một sách, một mình,
Bướm ong khuất nẻo, én anh khuây đường.
Ngậm-ngùi trông cảnh gia-hương.,
Đã thiên gợi nhớ, lại chương ngậm sầu.
Hơi gió lọt, bóng trăng thâu,
Đòi khi giở chiếc trâm nhau ra nhìn.
Nước non cách mấy dặm nghìn,
Biết lòng còn nhớ hay quên hỡi lòng ?
Chăn đơn, gối chiếc lạnh-lùng,
150.- Tưởng nhân-duyên ấy như vòng tơ vương.
Hay đâu tạo-hóa khôn lường,
Trần-công thoắt đã suối vàng. xa chơi.
Xót nàng mẹ goá con côi,
Phụng thờ hương khói chưa rồi ba năm.
Bỗng đâu binh lửa ầm- ầm,
Gió bay nhà bạc, cát lầm cửa thưa,
Lánh nàn, từng bước ngẩn-ngơ,
Mẹ già đầu bạc, con thơ má đào.
Ngày hỏi khách, tối trông sao,
160.- Dời chân bước thấp bước cao gập-ghềnh.
Thánh-tha bốn giọt lệ tình,
Biết đâu quen thuộc gởi mình được an.
Trải qua một quãng hàn-san,
Chênh-chênh nguyệt đã gác ngàn non mai.
Bỗng nghe trống giục, chiêng hồi,
Đêm khuya rừng rậm, rụng rời biết đâu ?
Pha-phôi dặm cúc, chòm lau,
Kẻ chân bãi nước, người đầu đỉnh non.
Con tìm mẹ, mẹ tìm con,
170.- Cỏ cây man-mác, nước non lạ-lùng !
Xót nàng thơ-yếu trẻ-trung,
Trời xanh nợ phụ má hồng chẳng bênh.
Một mình trong quãng rừng xanh,
Châu-chan má phấn, tằm oanh khúc vàng.
Tình cờ gặp ả họ Trương,
Ở Kim-lăng đến, hỏi nường thấp cao :
"Con người yểu-điệu thanh tao,
"Dáng sùi-sụt tủi, chìu ngao-ngán sầu !
"Tên gì, quê, họ nơi đâu ?
180.- "Gặp nhau xin ngỏ cho nhau biết cùng."
Tưởng rằng cùng bạn má hồng,
Đoái thương nên mới gạn-gùng phân minh.
Gạt châu mới kể sự tình,
Nỗi quê cách trở, nỗi mình truân-chiên.
Chẳng cho biết họ tường tên,
Tưởng cơn-cớ ấy, tủi nền-nếp xưa.
Trương ràng: "Thân gái hạt mưa,
"Biết đem mình ấy bây giờ cậy đâu ?
"Gần đây có một cảnh mầu,
190.- "Nữ-trinh, chùa ấy ở đầu Kim-lăng.
"Thênh-thênh cửa bụt đâu bằng,
"Xuất gia tín-nữ, tiểu-tăng cũng đầy.
"Chớ nề dưa muối, am mây,
Hãy nương náu, khỏi nạn này là hơn !"
Giắt tay nàng đến thiền-môn,
Bạch sư mới kể hàn-ôn gót đầu.
Khêu đèn hạnh, thắp hương mầu ,
Chắp tay lạy phật, khấu đầu qui sư.
Sư rằng: "Này đạo Chân-như,
200.- Mênh-mông cửa bụt bi-từ hẹp ai .
"Đã rằng thụ giáo thiền-trai,
"Chớ nề dưa muối, chớ nài nem chanh.
"Tam-qui, ngũ-giới chứng minh,
"Xem câu nhân-quả, niệm kinh Di-đà,
"Sớm cúng quả, tối dâng hoa,
"Duyên xưa nỡ phụ, để già độ cho."
"Trên tứ bảo, dưới tam đồ."
"Lòng tin hai chữ nam-mô báo đền."
Diệu-thường mới đặt là tên,
210.- Hay cho đưa xuống phòng thiền nghỉ-ngơi.
Nàng vâng thụ giáo như-lai,
Nhỏ to mới giã ơn người họ Trương.
đồng-tử năm ba: bởi chữ đồng tử ngũ lục nhân trong Luận=ngữ, ông Tăng-Điểm nói có 5,6 trẻ đi theo hầu.
long-câu: tức là con ngựa.
tỳ-bà: tức là cái đàn. Hành tang của các văn-nhân ngày xưa đi ra ngoài là cỡi ngựa và mang theo túi đàn.
Vàng hiu-hiu đón, ngọc làu-làu đưa: Câu này tả gió trăng đưa đón.
Phun châu nhả ngọc: câu này do câu thơ" thi thành châu ngọc tại huy hào" nghĩa là làm xong bài thơ thì châu ngọc ở cả nơi ngòi bút vùng-vẫy, nói bóng là văn thơ hay.
Giải-nguyên: đỗ đầu thi Hương, cũng gọi là Thủ-khoa.
Bảng xuân: do chữ xuân bảng về khoa thi Hội.
M uôn hồng nghìn tía: do chữ vạn tử thiên hồng.
thần-kinh: kinh-đô nhà vua.
Bảng người thì bốn, tên mình có ba: Bốn kỳ thi, trượt mất kỳ thứ 4.
Lòng trời còn dấm tài hoa: Ý nói người có tài hoa trời còn để dành (dấm :dìm: nhận)
Khôi nguyên: đỗ đầu.
Ba thu thấm-thoát: ý nói ba năm nữa lại có kỳ thi.
Vén mây, nhẩy sóng: Vén mây bởi chữ phi vân, nhẩy sóng bởi chữ khóa lãng ý nói thi cử bay nhảy.
Kim-cải: chỗ này phải chữ tên xứ vùng quê nhà của họ Trần.
Tống thần: bầy tôi nhà Tống ; trỏ vào các quan triều đời bấy giờ.
Xôn-xao tơ trúc, thờ-ơ bác đồng: tơ trúc là âm nhạc, nói về bên văn, bác đồng là súng đạn, nói về bên võ.
gia-hương: quê-quán làng-mạc nhà mình.
suối vàng: bởi chữ hoàng tuyền, suối ở dưới đất, tức là nơi âm-phủ.
Ngày hỏi khách, tối trông sao: Vì lạc đường không biết lối, nên ban ngày phaỉ đón khách qua đường mà hỏi, ban đêm cứ trông sao để nhận phương huớng mà đi.
hàn-san: nghĩa là núi rét, chỏ nơi rừng núi quạnh hiu lạnh-lẽo.
Kẻ chân bãi nước, người đầu đỉnh non: ý nói hai mẹ con mỗi người lạc mỗi nơi.
Châu-chan má phấn, tằm oanh khúcvàng: Câu này nghĩa là giọt châu chứa-chan nơi gò má, ruột tằm bối rối trong lòng.
Kim-lăng: Một địa-phương bên Tàu, thuộc huyện Giang-ninh tỉnh Giang-tô, ngày trước nhiều triều vua đóng kinh-đô ở đấy.
Thân gái hạt mưa: tục ngữ : con gái như hạt mưa sa, hạt rơi xuống giếng, hạt ra ruộng cày.
thiền-môn: cửa nhà chùa, cửa Phật.
hàn-ôn: rét, ấm, nói bóng là trò-chuyện kể-lể cùng nhau, cũng như hàn-huyên.
Khêu đèn hạnh, thắp hương mầu: Đèn hương nhà chùa.
Chân-như: có hai nghĩa :Theo thuyết nhà Phật thì chân-như là chân-lý nói về thực thể và thực-tính, suốt đời không biến cải. Theo thuyết nhà đạo Lão thì chân-như là do một tính mà nói. Chữ Chân-như trong câu này là theo tính nhà Phật.
Mênh-mông cửa bụt bi-từ hẹp ai: câu này ý nói cửa Phật là phả độ chúng sinh, từ-bi bác-ái rộng mênh-mông. Có bản chép là "viển-vông cửa độ..." có lẽ sai.
thiền-trai: nhà chùa ăn chay.
Chớ nề dưa muối, chớ nài nem chanh: Những món ăn chay của nhà chùa.
Tam-qui: là tiếng nhà Phật : qui-y phật, quy-y pháp, quy-y tăng.
ngũ-giới: 4 điều răn của nhà Phật : không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói càn, không uống ruợu, ăn thịt.
nhân-quả: Tiếng nhà Phật. Nhà Phật cho những việc làm là Nhân, việc ứng lại là Quả, ví như cấy lúa là nhân, gặt thóc là quả. Nhân tốt thì được quả tốt, nhân xấu thì bị quả xấu, đó là lẽ tự-nhiên, cũng như làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác.
Di-đà: kinh nhà Phật
tam đồ: Ba đường hiểm, nhà Phật cho tam đồ là Ngã-quỉ, súc-sinh và địa-ngục. Trong kinh Phật nói rằng : Địa-ngục tên là đường hỏa-đồ, ngã-quỉ tên là đường đạo-đồ, súc-sinh tên là đường huyết-đồ.
nam-mô: là tiếng Phạn, gọi chắp tay cúi đầu là Nam-mô. ( nghĩa là cung kính).
Diệu-thường: pháp hiệu đặt cho Kiều-Liên.
như-lai: hiệu Phật. Kinh Kim-Cương nói : không tự đâu đến cũng không đi đến đâu, nên gọi là Như-lai ( vô sở tòng lai, diệc vô sở khứ, cố danh như lai).